Người phụ nữ bán rau được giải “Nobel châu Á”

Một phụ nữ bán rau ở Đài Loan đã bỏ ra 231.800 USD để giúp đỡ những em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn và trở thành một trong 6 người nhận được giải thưởng Ramon Magsaysay – một giải thưởng được mệnh danh là giải Nobel châu Á.

  

Quỹ giải thưởng Ramon Magsaysay có trụ sở tại Manila đã vinh danh Chen Shu-chu là một trong 6 người chiến thắng cũng như miêu tả bà là người có lòng từ bi và làm thay đổi cuộc sống của nhiều người dân Đài Loan.

Từ số tiền kiếm được bằng công việc bán rau hàng ngày, bà Chen, người chỉ học hết lớp 6 và ngủ trên sàn nhà, đã có thể xây thêm nhiều thư viện mới và chăm lo cho những đứa trẻ đang gặp nguy hiểm hoặc bị gia đình bỏ rơi vì bệnh tật.

“Tiền được chỉ được sử dụng đúng mục đích khi đưa cho những người cần nó,” bà nói. “Tôi cảm thấy hạnh phúc bất cứ khi nào tôi có thể giúp được người khác.”

Giải thưởng cũng vinh danh Romulo Davide, tới từ Philippines, người đã giúp đỡ nông dân chống lại sâu hại lúa, chuối và những nông sản khác; Kulandei Francis tới từ Ấn Độ; Syeda Rizwana Hasan, một luật sư môi trường tới từ Bangladesh; nhà nông học người Campuchia Yang Saing Koma, người đã giúp nông dân cải thiện sản phẩm lúa gạo và Ambrosius Ruwindrijarto tới từ Indonesia, người đấu tranh chống lại nạn khai thác gỗ trái phép.

Những người chiến thắng sẽ nhận được một phần thưởng trị giá 50.000 USD trong lễ vinh danh vào cuối tháng 8.

Giải thưởng Ramon Magsaysay, được đặt theo tên của một tổng thống nổi tiếng của Philippines, người đã qua đời trong một vụ tai nạn máy bay, đã được thành lập vào năm 1957 bởi những người ủy thác của Quỹ Anh em Rockefeller có trụ sở tại Mỹ.

Gần 300 cá nhân và tổ chức, bao gồm Tổ chức Hòa bình Mỹ và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á, đã nhận được giải thưởng này từ năm 1958.

Sầm Hoa (Theo Reuters)

Trung Quốc chớ hành động đơn phương trên Biển Đông’

> Philippines không công nhận ‘thành phố Tam Sa’

Hãng Kyodo đưa tin, ngày 24 – 7, Mỹ cảnh báo Trung Quốc chớ có những hành động “đơn phương” trên Biển Đông sau khi Bắc Kinh tuyên bố thành lập một đơn vị hành chính quanh các vùng lãnh hải đang tranh chấp.

Nữ phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland
Nữ phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland.

 

Trong một cuộc họp báo, nữ phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland nói: “Chúng tôi vẫn quan ngại về khả năng có bất kỳ hành động đơn phương nào như vậy”.

Bà cũng cho biết, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, trong chuyến công du Châu Á gần đây, “thường bày tỏ quan ngại trước mọi tình trạng ép buộc về kinh tế hay quân sự” liên quan tới những tranh chấp giữa Trung Quốc với một số quốc gia Đông Nam Á thông qua những tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

Nội các Trung Quốc hồi tháng sáu đã có một bước đi sai trái là khoanh vùng toàn bộ các nhóm đảo tranh chấp cũng như các vùng lãnh hải xung quanh là “thành phố hành chính Tam Sa” thuộc tỉnh Hải Nam.

Cùng ngày, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain ra tuyên bố cho rằng, các hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là khiêu khích một cách không cần thiết.

Ông cũng cho rằng, việc Trung Quốc cử đại biểu của cơ quan lập pháp phụ trách các đảo và biển ở Biển Đông “chỉ làm củng cố thêm lý do tại sao rất nhiều nước châu Á ngày càng quan ngại về các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ bành trướng của Trung Quốc”.

Đặc biệt, ông McCain cho rằng, các tuyên bố chủ quyền này của Trung Quốc là “không có cơ sở trong luật quốc tế”.

Theo Vietnam+

By daohieu Posted in Chưa phân loại

Chủ tịch Mãn

LTS: Một trong những đoạn tôi rất thích trong tác phẩm Lạc Đường là đoạn viết về Mao Trạch Đông và cái lăng bằng “vàng” của ông ta. Mấy hôm nay đọc “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương thấy chị viết về Mao cũng đầy cảm hứng, tôi xin mạn phép trích đăng đoạn sau đây:

Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn. Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng:

-Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch?

-Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay chăng?

Ông ta vặn lại.

Chủ tịch lặng im.

Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười:

-Sao không trả lời thẳng thắn? Đây đâu còn là cuộc cờ thế sự, là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù muốn hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả chăng, ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn?

-Tôi không quen, thưa chủ tịch.

-Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái tỉnh nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám dân Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc rễ của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người?

-Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.

-Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta?

-Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.

-Ô, ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn diễn trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều là những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.

-Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn Mỹ cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của bản thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này?

-Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc chơi? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm, ta hiểu chúng chính là những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ chưa?

-Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.

-Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.

-Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông: “Đánh Mỹ đi, đó chỉ là một con hổ giấy”

-A…ha…ha…ha…Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cần mẫn. Ngươi khá lắm! Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ thời. Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến tích. Ta thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói cho đúng hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài này. Đấy là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên ngươi có mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ phản trắc. Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta nói như tin vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến thành bông, hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn đời chỉ là vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân con những tỉnh phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải đất cỏn con mà các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo, mà chúng ta sớm hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc chiến tranh này là một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ nhàng, không tốn kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính kế mà chỉ lặp lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa:

-Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. -Toạ sơn quan hổ đấu- chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều lần. Thời chiến tranh Nhật -Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng Nhật, cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng, bỏ mặc cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay Nhật để tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân đội được bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những dân tộc Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của các ông. Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ. Mọi trò lừa đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại lịch sử, và quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.

-Hậu thế? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là vào lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.

-Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền? Ông tạo dựng vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo?

-Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh bạc chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta?

-Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai đổi được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác biệt. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của số phận, và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung hăng nhất đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.

-Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.

-Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để phán đoán và xử trí mọi tình thế.

-Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây. Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước hết là ảo thức về dân chủ, thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ sự thất bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây trong khi lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng ngờ vực ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây để cột trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương đông chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy ngàn năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng chưa ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do người cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp dụng tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân phục lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm bằng đũa và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình đẳng cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ “đồng chí”  ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng cách bọn phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là bóng ma nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi chính do sự nhầm lẫn này.

Ô…đồng chí! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày đặt.

Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là “đồng chí” hay chưa?

Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng?

-Về điều này có thể là ông đúng…

-Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định. Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm tưởng của ngươi?

-Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.

-Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng ngươi ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai. Làm vua chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý thức là mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên như con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần xác. Cái khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi khóc ngươi cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi thế, ngươi chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ giải thích cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát. Vua diễn trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc chiếc mặt nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích, thậm chí trái ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng phải coi đó là sự đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện này. Ông ta cực thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên cốt, thơ cao sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng đủ tứ thư ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm vua. Trong khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào bất cứ xó xỉnh nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích ông ta đá hoàng hậu đến sảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần văn võ?

-Tôi nhớ.

-Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn?

-Đương nhiên, tôi nhớ.

-Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà Khôn đã từng bày mưu sát hại thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không?

-Hai lần, nếu tôi không nhầm.

-Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể tướng Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn vẫn được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều đó chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn Long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phaỉ kẻ nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như vậy, nếu không vì thoả mãn lòng dục? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân xác chứa đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê một lần cả trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng tính mạnh hơn, cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh bỉ nên ông ta mới dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để che mắt thiên hạ. Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về quê lấy chồng ắt hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to mắt mà nhìn trò chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời nào cũng vậy.

-Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền thống này.

-Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa. Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất liền thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó xuyên lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi tần ở đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào tơ từ mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy lại tuổi trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dậy thì này.

-Vâng…

Chủ tịch nhếch mép cười:

-Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông: Ta rửa bộ phận sinh dục của ta trong bụng họ.

-Cái gì là bộ phận sinh dục? Ngươi quả là kẻ sính danh từ của bọn mũi lõ mắt xanh? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của nông phu bản địa:”Ta rửa con cặc của ta trong những cái hĩm của bọn gái non cho nó được dồi dào nhuận khí. Thế đấy, ngươi đã nghe rõ chưa?”

Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi mắt nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng đều tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch Mãn hắng giọng nói tiếp:

-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các nữ đồng chí này cho đám quan sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng, nếu chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các giảng đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự rơi rụng của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và hân hạnh mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật nuôi dưỡng rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ sáng tạo trong ta hay chưa? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của Càn Long chưa?

Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.

Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn đầy trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè khiến người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy dưới áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe người làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện hình từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là trong thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết các quần thần; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn ma, dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta vang lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc thì nó sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ tịch Mãn khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức giận. Lần đầu, ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị như khi đọc truyện Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy ông im lặng. Ông ta hạ giọng:

-Sao? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc đáng lẽ phải làm?

-Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.

-Vậy ngươi nghĩ gì?

-Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.

-Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng đều phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết cách nắm vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu la dồn đến nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết?

-Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao? Vả chăng, thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất hết trí khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng trước mấy chục triệu thây ma oan uổng kia sao?

-Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng? Cuộc chơi đã xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta và ngươi cũng vậy.

-Tôi thấy ông cũng khá thành thật.

-Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.

-Nếu đã xác nhận quan hệ anh em -cừu thù, cớ sao ông còn đến đây?

-Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em-cừu thù nên ta mới đến đây.

-Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên bệ thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước bất cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại. Bởi dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây cất bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương người chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất để giáo huấn cho những kẻ muốn làm vua?

-Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc. Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng được! Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân tử Bắc kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn quân vương khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra ngươi nên học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với giấc mơ «Một túp lều tranh hai trái tim vàng”. Làm vua, nghề này đòi hỏi cách xử thế khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được quên.

Điều thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo. Ấy là phép vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết lưu thông.

Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm cung điện vì máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng loài cây đơm trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không được tưới tắm mà đơm cành kết trái được không?…Hai nguyên tắc vàng để bảo dưỡng thân tâm và bảo trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới nay đều biết ứng dụng. Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược lại. Đấy là sự nhầm lẫn lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ tiêu diệt sự nghiệp của ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả hai phương diện, thân xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám khắc khoải vì ở trong thế bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an dưỡng Quảng Châu để trói cẳng ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở tại, thích nhìn gái đẹp sở tại. Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây?

Ông im lặng.

Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời thì cười và nói tiếp:

-Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi? Tấm thân cá chậu chim lồng.

Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và biến mất.

DƯƠNG THU HƯƠNG

(trích từ trang 640 đến trang 667 “Đỉnh Cao Chói Lọi”)

Vì sao Hun Sen đổi thái độ với VN?

Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy gửi tới BBC từ Paris. Cập nhật: 15:23 GMT – thứ tư, 18 tháng 7, 2012

Hôm 13 tháng 7 năm nay, Hội nghị bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 45 tổ chức tại Phnom Penh chấm dứt trong không khí chia rẽ gay gắt và thái độ của Campuchia trong vụ việc này đã làm nhiều người kinh ngạc.

Dư luận tố cáo Campuchia là con ngựa mồi của Trung Quốc, là kẻ phá vỡ khối đoàn kết ASEAN. Nhưng thực ra Campuchia không phải là con sâu làm rầu nồi canh hay con ngựa mồi của Trung Quốc.

Campuchia, cũng như Lào, Việt Nam và Myanmar, chỉ là phần nổi của tảng băng bành trướng từ phương bắc xuống vùng biển phía nam. Tác nhân chính trong việc chia rẽ hay phân tán nội bộ khối ASEAN là Trung Quốc.

Từ hơn mười năm qua, Bắc Kinh đã âm thầm mở rộng vòng đai ảnh hưởng xuống các quốc gia phía nam trong mục tiêu truy tìm những nguồn năng lượng mới. Chiến lược mở rộng vòng đai ảnh hưởng của Trung Quốc khá giản dị: mua chuộc sự trung thành bằng tiền.

Trong thời gian từ 1994 đến 2011, Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng 8,8 tỷ USD vào Campuchia và trở thành nhà đầu tư lớn nhất. Đầu tư của Trung Quốc tập trung vào các ngành thủy điện, khoáng sản, dệt may, ngân hàng, tài chánh, du lịch và công nghiệp, và gần đây hơn vào công tác dò tìm dầu khí trong nội địa Campuchia.

Những khoản đầu tư trực tiếp từ các doanh nghiệp Trung Quốc khoảng 1,19 tỷ USD, chủ yếu vào các ngành khai thác gỗ rừng, khoáng sản, xây dựng và khách sạn. Bắc Kinh còn hứa cho Phnom Penh vay với lãi suất thấp vào bảy lãnh vực chính như tài chánh, y tế, hàng không,thông tin, giao thông, vận tải, đặc biệt là 430 triệu USD để nâng cấp các cơ sở hạ tầng và 20 triệu USD để xây dựng quân y viện và trương đào tạo quân sự.

Trung Quốc còn là nhà tài trợ phát triển cơ sở hạ tầng lớn nhất tại Campuchia với hơn 2,1 tỷ USD như xây dựng và nâng cấp các quốc lộ (1, 2, 3, 4, 6, 7) nối liền biên giới Lào và cao nguyên phía đông đến Vịnh Thái Lan và cảng Kompong Som.

Mối giao hảo Trung Quốc – Campuchia ngày càng thắm thiết

Ngoài ra, về thương mại, hai bên cam kết nâng kim ngạch thương mại song phương từ 2,56 tỷ USD lên 5 tỷ USD.

Đó là chưa kể những khoảng tiền mua chuộc, đút lót cho các cấp lãnh đạo Khmer từ trung ương đến địa phương để được dễ dàng trong việc khai thác tài nguyên và xây dựng cơ sở.

Số người Trung Quốc hiện diện chính thức trên lãnh thổ Campuchia khoảng 350.000 người, trong đó 200.000 người thường trú tại thủ đô Phnom Penh. Trước những khoản tiền khổng lồ này, không một cấp chính quyền nào của Campuchia có thể làm ngơ.

Dư luận lo sợ rằng Campuchia sẽ trở thành một thuộc địa của Trung Quốc trong nội bộ ASEAN như Myanmar đã từng và đang cố vùng vẫy để thoát ra. Nhưng có một yếu tố ít ai nhắc tới, đó là tính thực tiễn của các cấp lãnh đạo Khmer: chính sách đu dây hay thái độ hai mặt, nghĩa là biết ngả theo phe mạnh nhất để giữ gìn và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ.

Cố thoát gọng kìm

Từ thế kỷ thứ 17 đến nay, các cấp lãnh đạo Campuchia đã áp dụng thái độ hai mặt để thoát khỏi thế gọng kìm giữa Việt Nam và Thái Lan và đã thành công.

Đối với Phnom Penh, Trung Quốc ngày nay giống như Pháp hồi cuối thế kỷ 19 là cường quốc bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Campuchia trước sự “chèn ép” của Thái Lan, như tại đền Preah Vihear, và Việt Nam trong việc phân chia ranh giới dọc khu vực Takeo và Svay Rieng.

Chính vì thế, trước những tranh chấp hiện nay trên Biển Đông, thái độ của Phnom Penh là trung lập, cũng như Sihanouk trước kia trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1965-1975).

Từ chối ủng hộ Việt Nam và Philippines và không ghi vào bản tuyên bố chung cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sau hội nghị cấp bộ trưởng ngoại giao ngày 13 tháng 7 vừa qua, nằm trong lô gích này.

Là một quốc gia nhỏ bé và yếu kém, lại nằm giữa hai gọng kềm Việt Nam và Thái Lan, Campuchia luôn bị thiệt thòi trong việc xác định làn ranh phân chia lãnh thổ và lãnh hải với cường quốc khu vực.

Trong Vịnh Thái Lan, thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế của Campuchia bị teo lại bởi những hải đảo thuộc chủ quyền Việt Nam và Thái Lan, các cấp lãnh đạo Khmer đã tỏ ra bực tức trước sự thiệt thòi này nhưng không biết giải quyết bằng cách nào.

Trên đất liền cũng thế, Campuchia không có tiếng nói mạnh để ấn định làn ranh phân chia lãnh thổ với Việt Nam và Thái Lan theo ý mình.

Để bảo vệ địa vị lãnh đạo của mình, các cấp chính quyền Khmer trước kia đã biết cậy nhờ sự che chỡ của Việt Nam và Thái Lan để loại trừ đối thủ, bù lại các thế lực bảo vệ được hưởng những quyền lợi mong muốn.

Ngày nay thế lực này là Trung Quốc, không những thế quốc gia Campuchia còn được giúp đỡ trực tiếp, phản ứng tự nhiên của các cấp chính quyền Khmer là ngả theo Trung Quốc.

Quốc gia bị thiệt thòi nhất trước sự trở mặt này có lẽ là Việt Nam. Chính quyền Hun Sen đã do chính chế độ công sản Việt Nam dựng lên sau khi xua quân đánh đuổi Pol Pot năm 1979.

Cho tới năm 2010, tuy bề ngoài chính quyền Hun Sen vẫn rất gắn bó với Việt Nam nhưng trong lòng đã ngả theo Trung Quốc. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã tốn rất nhiều tiền bạc và xương máu tại Campuchia để rồi đi đến kết quả bi đát này.

Sai lầm chính của chính quyền cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua là đã giúp Hun Sen tiêu diệt và bóp nghẹt những tiếng nói đối lập nên nay Hun Sen tự do lộng hành vì không còn ai phản đối và đã có thái độ phản trắc trong hội nghị ASEAN về ngoại giao.

Đối với ASEAN, sự trở mặt của Campuchia không quá tai hại để có thể làm mất tình đoàn kết nội bộ.

Mối lo ngại chính của các quốc gia ASEAN là sự gặm nhắm từ từ nhưng chắc chắn của Trung Quốc về chính trị và kinh tế trên năm quốc gia trên bán đảo Ấn-Trung (Indochina), đó là Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Gần đây Myanmar đã thức tỉnh và đang cố vùng vẫy thoát khỏi màng nhện mà Trung Quốc đã giương ra.

Trường hợp của Lào và Campuchia thì khó hơn vì hai nước này ngày nay đã gần như nằm gọn trong vòng tay của Trung Quốc, doanh nhân Trung Quốc đã nắm toàn bộ mọi sinh hoạt mọi kinh tế và thương mại.

Trường họp Việt Nam thì còn đang dùng dằng, vì một mặt quần chúng Việt Nam vẫn còn sáng suốt nhìn thấy sự xâm thực ảnh hưởng của Trung Quốc và mặt khác các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang phân vân chọn lựa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, ai là người giúp họ duy trì quyền lãnh đạo trên đất nước.

Cũng may, con bài Campuchia đã sớm lộ tẩy để thấy âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Vấn đề còn lại của ASEAN là làm sao bảo vệ được những bí mật trao đổi nội bộ để không bị Trung Quốc làm áp lực thêm.

Trục trặc kỹ thuật trong vụ việc vừa qua buộc các quốc gia ASEAN phải có một thái độ khác với Trung Quốc, nếu muốn trở thành một khối thống nhất về kinh tế và chính trị.

Bài thể hiện quan điểm riêng của tiến sỹ Nguyễn Văn Huy từ Paris, Pháp.

HÃY TRẢ ĐẤT CHO DÂN NGHÈO


tranh của Vincent. van Gogh

Kẻ chiếm đất hãy trả đất cho người khai hoang

để dân nghèo tự gieo mầm sống giữa cảnh đời cơ cực bần hàn.
không cần những dự án vĩ đại định hướng tầm cao hun hút
cần một mái lều che nắng mưa trên rẻo đất của tiền nhân
không cần tung hô “do dân vì dân” vinh quang muôn năm.
.
Người đói khát cần hạt cơm giọt nước.
dù hạt cơm thiu, hạt lúa lép đã mất vì bọn cướp ngày
tép mạ non bên mương hoang bị tước đoạt khỏi đôi tay
dù máu đã thấm ướt bao cuộc chiến chống xâm lược
dù giọt mồ hôi đã kiệt khô bao phen trên luống cày
giọt lệ ưu phiền còn vương trên mi ai.
.
Dân không đất tựa đất mất nước.
Đất không còn nơi gieo hạt, cằn khô cỏ cây mai sau
bao người lưu lạc tha phương tan tát bể dâu.
Nước đâu còn ngọt ngào cho trẻ thơ ước mơ giữa mùa khao khát
lời đồng dao muôn xưa ru nôi trôi về đâu
khi đất mẹ vườn quê thuộc về các lãnh chúa sang giàu

Thủ Đức, 7/2012
Đoàn Thuận
[nguồn:đôi vần thế sự]

TÍNH CÁCH LÁ MẶT LÁ TRÁI CỦA NHỮNG NGƯỜI CẦM QUYỀN CAM BỐT

Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, chính quyền Hà Nội đã lắm phen phải chịu cay đắng vì sự tráo trở của ông hoàng Norodom Sihanouk. Ngày hôm trước ông ta còn nói sẽ hết lòng giúp đỡ quân đội Bắc Việt đang trú ngụ tại nước ông ta để thực hiện các cuộc đột nhập vào các tỉnh sát biên giới của Nam Bộ, ngày hôm sau ông ta đã bật đèn xanh cho bộ trưởng quốc phòng Lon Nol xua quân đánh đuổi Việt Cộng. Chính vì sự tráo trở này mà chính quyền Hà Nội do muốn được việc đã liên tục phải ve vãn phỉnh nịnh “xăm đéc” (bố) Sihanouk.

Sau năm 1975, khi đã giành được chính quyền trong sự phối hợp với quân đội cộng sản Việt Nam, các đồng chí Pol Pot, Yeng Sary, Khieu Samphan lập tức trở mặt đánh chiếm các tỉnh biên giới của Việt Nam với cớ đòi đất của ông cha.

Nhưng những sự trở mặt đó đã thuộc về quá khứ, và là thái độ của những kẻ chưa từng lệ thuộc Việt Nam.

Còn bây giờ thì chúng ta đang chứng kiến sự tráo trở của kẻ được chính quyền Hà Nội nhấc đặt lên vị trí quyền lực cao nhất ở đất nước này.

Hãy nhớ lại, vào tháng 1 năm 1979, sau khi quân đội Việt Nam thừa thắng đánh thẳng sang Cam Bốt, đuổi quân Pol Pot sang sát biên giới với Thái Lan, một chính quyền gọi là của người Cam Bốt được dựng nên, với người đứng đầu là Pen Sovan, được quân Việt Nam mang theo về Cam Bốt.

Rồi sau ngày 1 tháng 12 năm 1981, người ta bỗng nhiên không còn thấy mặt mũi cũng như bóng dáng hơi hướng của cái ông Pen Sovan này nữa. Người thay thế ông ta trên danh nghĩa là Heng Samrin, nhưng trên thực tế, người tiếp quản vị trí quyền lực cao nhất của nhà nước Cam Bốt là một nhân vật mới toanh: ông Hunsen, người hiện nay vẫn đang là thủ tướng Cam Bốt và đang làm mưa làm gió tại đó.

Ông Lê Đức Thọ, cố vấn Việt Nam bên cạnh chính quyền mới của Cam Bốt, – vâng, thực chất chính là cá nhân ông Thọ quyết việc này – đã nhẹ nhàng nhấc quân cờ Pen Sovan xuống và đặt lên đó một quân cờ mới với cái tên Hunsen mà không thèm cho báo chí giải thích lấy một lời. Ông muốn tỏ cho thiên hạ thấy “tao muốn làm gì thì làm, tao không cần giải thích”. Nhưng ngày nay thì sách báo nói về ông Hunsen cứ như là ông ta ngay từ đầu đã là nhân vật số Một.

Cuối thập niên 1980, những khó khăn chồng chất do làm ăn thất bát và bị cấm vận tứ phía buộc Việt Nam phải rút quân đội khỏi Cam Bốt, trả lại quyền tự quyết do dân tộc này, và Cam Bốt đã mời ông hoàng Sihanouk trở về làm bình phong để đạt được sự thừa nhận của quốc tế.

Khi đó, được hỏi liệu như vậy thì Cam Bốt có bị mất chủ nghĩa xã hội hay không, Hunsen đã nói đại ý là Cam Bốt đã bao giờ có chủ nghĩa xã hội đâu mà mất.

Câu nói đó thực ra phải hiểu là: “Chúng tôi đã bao giờ có ý định đi theo chủ nghĩa xã hội đâu. Nếu quý vị nghe nói Cam Bốt định theo con đường đó thì đó chỉ là nghe qua miệng mấy ông ở Hà Nội thôi.” Một câu nói rất khôn. Và “mấy ông Hà Nội” cũng đã bảo nói như thế là khôn, nhưng lại hiểu cái khôn theo cách khác: họ nói Hunsen rất khiêm tốn, chưa dám nhận là Cam Bốt đã có chủ nghĩa xã hội.

Câu nói của Hunsen đã báo hiệu việc Cam Bốt sẽ tách hoàn toàn khỏi ảnh hưởng của Việt Nam, kể cả trên bình diện tư tưởng.

Cố nhiên, mỗi lần tiếp quan chức Việt Nam, ngài Hunsen (mà Hà Nội rất muốn tiếp tục gọi là đồng chí) không thể không nhắc đến công giải phóng đất nước Cam Bốt khỏi tay Pol Pot. Bởi nó quá hiển nhiên. Quên nói điều đó sẽ rất bất lợi cho uy tín của ngài.

Sẽ là rất bình thường nếu ghi nhận công ơn của người cứu mạng, đồng thời khéo léo thoát khỏi tình trạng bị biến thành cái đuôi hay trò chơi của ân nhân. Một ân nhân thực sự tốt cũng không nên vì đã làm ơn mà biến kẻ chịu ơn thành con rối. Ngài Hunsen sẽ rất đáng tôn trọng nếu làm được như vậy, và chỉ như vậy.

Nhưng Hunsen đã không chỉ làm vậy.

Những tháng gần đây ông ta có những động thái chứng tỏ ông ta hết lòng phục vụ những người cầm đầu ở Trung Nam Hải, những người đang có tham vọng chiếm hầu như toàn bộ biển Đông (mà họ gọi là biển Hoa Nam). Ông ta thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với Trung Quốc, tuyên bố ủng hộ quan điểm của chính phủ Trung Quốc trên vấn đề biển Đông.  

Đặc biệt, trong những ngày từ 9 đến 13 tháng 7 vừa qua, lợi dụng tư cách chủ nhà của hội nghị các bộ trưởng ASEAN thứ 45 (AMM-45), ngài Hunsen đã tìm mọi cách phá hoại tiến trình ra tuyên bố chung của khối này về vấn đề biển Đông. Ông ta nói việc các nước muốn đưa ra một tuyên bố như vậy là thái độ “bắt chẹt” nước chủ nhà. Không cần phân tích hay bình luận dài dòng, chỉ cần dẫn những lời phát biểu sau đây của một vài nhân vật có uy tín quốc tế cũng đủ thấy bụng dạ của người cai trị Cam Bốt.

Ngoại trưởng Indonesia: “ASEAN không có thông cáo chung về biển Đông là cực kỳ vô trách nhiệm và đáng phẫn nộ. Đây là lúc ASEAN phải đồng lòng”. “Hãy hỏi các nước có hành động quá lộ liễu, như nước chủ nhà chẳng hạn.”

Giáo sư Carl Thayer, học viện quốc phòng Úc: “Cam Bốt là thủ phạm, cố tình làm hỏng cuộc họp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần này.”  

Báo Channel News Asia: “Các nhà ngoại giao tại cuộc họp nói Cam Bốt chống lại mọi hành động làm mất lòng Bắc Kinh. Giới chức Cam Bốt và Trung Quốc đã họp riêng ngay trước hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Bộ trưởng Dương Khiết Trì của Trung Quốc bày tỏ công khai rằng ông đánh giá cao sự ủng hộ bấy lâu của Cam Bốt dành cho Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc.” 

Rõ ràng ông Hunsen đang thọc lưỡi dao vào hông Việt Nam. Vì quyền lợi, ông ta đang từng bước bán đứng những người đã đưa ông từ miệng hố chôn người tập thể lên địa vị đứng đầu chính quyền Cam Bốt.

Vua chúa Trung Hoa có truyền thống trong việc mua chuộc vua chúa các nước khác. Một lần nữa, kẻ bị họ mua chuộc là người đứng đầu nước láng giềng tây-nam của chúng ta. Việt Nam một lần nữa rơi vào thế gọng kìm giữa Trung Quốc và một nước chư hầu của họ, giống như thời kỳ 1975 – 1979.

Tất nhiên, cũng phải nói rằng trong việc ngài Hunsen ngả vào lòng Trung Nam Hải, các vị lãnh đạo nước ta cũng khó mà lên tiếng trách móc được.

NGUYỄN TRẦN SÂM

Tiếc thương Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Từ trái qua phải: Ông bà nhà văn Võ Phiến, Đào Hiếu, Nguyễn Mộng Giác và Mỹ Tuyết tại Hoa Kỳ năm 2004

MÙA BIỂN ĐỘNG

Đặng Tiến

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác vừa qua đời tại Mỹ, ngày 02- 7- 2012 sau một cơn bệnh dài, là tác giả hai bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động[1],  tiểu thuyết thời sự, sáng tác tại Hoa Kỳ 1982- 1989, gồm năm tập, 1 800 trang, và bộ tiểu thuyết lịch sử Sông Côn Mùa Lũ, viết trong nước, 1978- 1981, 4 tập, 2000 trang , là hai bộ tác phẩm đồ sộ nhất trong ngành tiểu thuyết Việt Nam, sau Cửa biển[2], của Nguyên Hồng xuất bản trong nước đã lâu.

Tác phẩm Mùa biển động  đã được độc giả hải ngoại đón tiếp nồng nhiệt. Tập một, Những đợt sóng ngầm, in năm 1984, đã được tái bản nhiều lần, Bão nổi (1985) cũng vậy; tập ba mang tên toàn bộ Mùa biển động, 1986, đã tái bản. Bèo giạt in năm trước, 1988, thì năm sau tác giả cho in tập cuối, dài nhất, là Tha hương.

Tiểu thuyết Mùa biển động là một biến cố quan trọng trong nền văn chương Việt Nam ở hải ngoại, cần được chào đón xứng đáng, và cần được phân tích, thảo luận, phê phán cặn kẽ, bên ngoài cái vòng khen chê tùy hứng và lẩn thẩn, hay cuồng nộ theo những định kiến chính trị hay phe phái.

Bài này giới thiệu từng tập một, theo giá trị ở thời điểm xuất bản, và cuối cùng sẽ có phần tổng luận về năm tập. Để bạn đọc có thể đặt Mùa biển động vào thể loại văn học của nó, tôi có bài khác, về tiểu thuyết trường thiên nói chung – đăng kèm.

Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Định, đã có tác phẩm in tại Sài Gòn trước 1975: Ba truyện dài, hai tập truyền ngắn và một tiểu luận. Vượt biển năm 1981, ông khởi viết Mùa biển động ngay từ trại tị nạn Kuku, và viết tiếp tại Hoa Kỳ. Nguyễn Mộng Giác có một sức viết, một ý chí lao động nghệ thuật đặc biệt: trong tám năm tha hương, phải làm nhiều nghề vất vả để sinh nhai, ông đã xuất bản năm truyện dài, hai tập truyện ngắn[3] và viết nhiều bài nghiên cứu văn học giá trị. Từ 1985, ông chủ trương tạp chí Văn học nghệ thuật, từ 1986 đổi tên là Văn học, hiện nay là tờ báo văn nghệ Việt Nam thuộc loại đứng đắn và hay nhất, so với nhiều tạp chí khác cả trong lẫn ngoài nước. Khi viết xong – nghĩa là rảnh nợ Mùa biển động – Nguyễn Mộng Giác có tâm sự: «Từ bảy năm nay, tôi vừa viết vừa lo đánh máy, vừa tự bỏ tiền in mấy bộ truyện dài này, trong khi vẫn phải dành thì giờ cho việc kiếm sống… Xin bạn đọc hiểu cho rằng đây là tim óc tôi, là mồ hôi của tôi, là máu của tôi»[4]. Một gương cần mẫn, một tình yêu văn nghệ, một cống hiến cho tiếng nói dân tộc, ở mức ấy, ở một người Việt lưu vong, đáng cho nhiều người suy nghĩ.

Nguyễn Mộng Giác là người di tản, độc giả của ông, trước hết là người di tản. Tác phẩm của ông phản ánh thế giới quan của người bỏ nước ra đi; ông không mấy cảm tình với chế độ cộng sản, điều đó dễ hiểu và không quan hệ gì với nghệ thuật.

Mùa biển động kể lại đời sống, vật chất và tinh thần, một thế hệ thanh niên đồng lứa tuổi với Nguyễn Mộng Giác, quay chung quanh mươi nhân vật nam và nữ, thuộc ba gia đình ở Huế. «Tôi muốn qua cuộc đời thăng trầm của ba gia đình, phản ánh giai đoạn có nhiều thăng trầm bể dâu nhất của người miền Nam, từ lúc chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ đến ngày tôi vượt biên »4 – 1981.

Nhân vật chính của Nguyễn Mộng Giác toàn là những thanh niên trí thức thành thị, phần nhiều thuộc thành phần khá giả, bị cuốn vào những cơn bão của lịch sử, trong non hai mươi năm. Tác giả đưa vào tiểu thuyết những sự kiện có thật, nhân vật có khi trùng tên thật của nhiều người thật, nhưng khẳng định rằng Mùa biển động không phải là tiểu thuyết lịch sử mà chỉ là «biến chuyển tâm trạng của [một] thế hệ thanh niên trưởng thành trong chiến tranh […], cuối cùng trôi nổi theo một nhân vật chính đến chỗ tha phương »[5] (nhưng cuối cùng, các nhân vật chỉ «tha hương» mà không «tha phương»).

Hai tập đầu, Những đợt sóng ngầm (1984) và Bão nổi (1985), gợi lại phong trào tranh đấu miền Trung khoảng 1964-67 với những biểu tình, xô xát, tuyệt thực, hội thảo, bàn thờ Phật xuống đường, xe tăng lựu đạn đàn áp…. Không khí tiểu thuyết sôi nổi, biến cố dồn dập, các nhân vật thường xuyên dao động trong thời sự nóng bỏng, được tác giả phản ánh dồi dào, trung thực. Nhưng cái hay là tâm trạng của một lớp thanh niên: họ làm chính trị hàng ngày, hàng giờ, với lập trường, quan điểm, vì cơn bão lịch sử đã thổi tạt họ vào một đám cháy, chứ bản thân họ không phải là những con người chính trị. Và sự lựa chọn của họ, chỉ tự do trong chừng mực nào đó, trong những điều kiện xã hội nào đó mà thôi.

Khi hai tập đầu ra mắt, đã có một số người phản ứng mãnh liệt trên vài tờ báo chống cộng ở Bắc Mỹ. Đại khái họ chê trách Nguyễn Mộng Giác o bế những nhân vật thân cộng, sau này theo Mặt trận giải phóng, như Tường, bôi bác quân đội Sài Gòn qua nhân vật Lãng, và cả chế độ Sài Gòn nữa, và tác giả đã đánh bóng cho phong trào Phật giáo, v. v. Khi sự công kích trở thành thô bạo, đã có nhà văn lên tiếng bênh vực Nguyễn Mộng Giác, và ông cũng có lần trả lời, đại ý rằng bộ tiểu thuyết chưa xuất bản toàn bộ, vậy không thể đánh giá lập trường tác giả qua hai cuốn đầu tiên.

Thật ra thì Nguyễn Mộng Giác đã viết Những đợt sóng ngầm và Bão nổi với tất cả tấm lòng tha thiết với kỷ niệm, với tất cả những mất mát của bản thân; nếu ông có nâng niu sự cố này hay nhân vật kia, thì đó cũng là tình cảm thường tình của người mẹ với những đứa con – dù là con hư. Mà dù trong thâm tâm Nguyễn Mộng Giác có nuôi nấng chút tình cảm nào đó với phong trào tranh đấu miền Trung 1964-67, thì cũng chưa chắc gì ông đã tán thành quan điểm chính trị và phương pháp hành động của phong trào đó. Nguyễn Tuân, khi đề cao tài chém treo ngành của một đao phủ hay lòng yêu nghệ thuật của một cai ngục, không chắc gì đã ưa nghề đao phủ hay cai ngục. Thậm chí, viết văn, đôi khi chỉ là cách vân vê một vết thương trong đời mình.

Nhà văn Nhật Tiến yêu thích hai tác phẩm này là có lý do sâu sắc [6].

Nhưng dường như Nguyễn Mộng Giác cũng thấm đòn. Đến Mùa biển động, tập 3 (1986, không có tên riêng), ông đã thận trọng hơn, chừng mực hơn, «giữ võ» kỹ hơn. Động tác chỉ xảy ra mấy ngày Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với những trận đánh, những vụ «xử lý» chôn người mà mọi người đều biết; tác giả mô tả cảnh thảm sát ở một chương áp chót và giải thích hiện tượng đó ở chương cuối, như một tư liệu. Nhắc lại những tàn bạo của các đơn vị Mặt trận giải phóng tại Huế, Nguyễn Mộng Giác chỉ nêu lên một sự thật lịch sử, một trong nhiều sai lầm của phe giải phóng, nhưng thuộc loại tàn bạo nhất. Nhưng cũng là một cách chứng tỏ rằng ông không phải là người thân cộng, với những ai cần biết rõ điều đó để an tâm.

Về cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968 tại Huế, ngày nay ta có nhiều tác phẩm tư liệu: từ Giải khăn sô cho Huế (1969), Tình ca cho Huế đổ nát (1967) của Nhã Ca, đến bút ký của một số nhân vật đã từng sống trong Mùa biển động như Hoàng Phủ Ngọc Tường (Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, 1971), hay Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Hà, Tô Nhuận Vỹ (Huế những ngày nổi dậy, 1979), hoặc của tướngLê Chưởng, chính ủy mặt trận Huế thời đó (Đất nước vào xuân, 1979). Đây là những chứng từ có giá trị lịch sử và văn chương. Ngoài ra còn có những hồi ký mặt trận của các tướngLê Tự Đồng, Trần Quý Hai. Có lẽ Nguyễn Mộng Giác chưa đọc, chỉ dựa vào hồi ký của tướngLê Minhvà cuốn The battle for the Tet 1968 của Keith William Nolan.

Tuy nhiên  Mùa biển động III là một cuốn sách hay, qua thuật kể chuyện trầm tĩnh, chừng mực và hấp dẫn. Tác giả khéo gạn lọc những chi tiết làm nổi bật tâm lý của người Huế trung bình lúc đó. Chúng ta lại có dịp so sánh để thấy đặc tính của ba thể loại văn chương: Hoàng Phủ Ngọc Tường viết bút ký,Lê Chưởng viết hồi ký, Nguyễn Mộng Giác viết tiểu thuyết. Họ khác nhau không phải chỉ ở «lập trường» hay vị trí quan sát, hay cách nhìn, mà còn ở hành văn, ở thể loại. Điểm cuối cùng này về mặt văn học, tôi rất thích thú.

Đến Bèo giạt, tập 4, dường như Mùa biển động đã đưa Nguyễn Mộng Giác đến Tiền Đường. Nợ tình đã trả xong trong hai cuốn đầu, ân oán cũng đã phân minh với cuốn 3, tác giả phát triển tài năng của mình thoải mái. Trước hết, ông đổi không gian: từ Huế, động tác chuyển vào Qui Nhơn, và phần nào Sài Gòn. Thời gian cũng im ắng hơn: kỷ niệm Mậu Thân đang kéo da non thành sẹo, người ta lo lắng cho hòa bình. Chuyện xảy ra từ 1968 đến Hiệp định Paris 1973: Ngữ, nhân vật chính, một hạ sĩ quan đã làm việc tại tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên, được chuyển vào Sài Gòn, học thêm, thi tú tài, vào trường sĩ quan Thủ Đức, rồi được về làm việc tại tiểu khu Quy Nhơn. Không khí chính trị bớt căng thẳng: không còn những đấu tranh sôi nổi của hai tập đầu, cũng không còn sự ngột ngạt giữa hai lằn đạn như trong tập 3. Bèo giạt là sự chờ đợi, suốt thời gian hòa hội Paris. Cuộc tranh chấp chính trị, giới hạn trong phạm vi cá nhân, quyền bính và địa phương, không phản ánh được sự chuyển mình của miền Nam lúc đó; ngược lại, các nhân vật sống nhiều hơn đời sống riêng tư của mình: tình yêu, tình gia đình, tình bạn xen kẽ vào những chương trình thời sự. Lời kể chuyện nhẹ nhàng, linh hoạt, hấp dẫn hơn, «tiểu thuyết» hơn; các nhân vật thoát ly phần nào ra khỏi từ trường của thời đại, đã xê dịch, sinh hoạt, đối thoại tự nhiên hơn. Về phương diện kỹ thuật, Bèo giạt có những ưu điểm nhất định.

Những ưu điểm đó cần được trả giá: trước hết là sự chênh lệch so với ba tập trước. Từ một không khí nặng trĩu thời cuộc đè bẹp định mệnh, những nhân vật như Tường, Ngô, Nam, bước sang Bèo giạt người đọc như hụt hẫng khi nghe các ông trung tá, đại tá, giữa những canh mạt chược, đàm luận về cách làm tỉnh trưởng: tỉnh lớn phải thế này, tỉnh nhỏ phải thế kia. Trong khi đó, những năm 1970-73 miền Nam đang đi vào khúc quanh quyết định: hòa hội Paris, chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, mặt trận Trị Thiên, mùa hè đỏ lửa, cuộc đấu tranh tại các đô thị chống tham nhũng, độc tài… Tác giả có viện lý do không viết tiểu thuyết lịch sử đi nữa, thì người đọc vẫn mong đợi nhiều âm vang hơn của thời sự, dù chỉ là thời sự của tỉnh Bình Định, một địa phương quan trọng, thời đó có nhiều sự cố.

Để vớt lại nhược điểm đó, tác giả đưa ra nhiều nhận định tổng quát về chính trị: về chế độ Ngô Đình Diệm (tr. 1076), về tác dụng vụ tấn công Mậu Thân (tr. 1080) – cả hai nhận định đều không mấy liên quan đến Bèo giạt, có liên quan là những ý kiến về chương trình bình định nông thôn (tr. 1068), tiếc rằng những trang viết này vừa dài dòng, vừa sơ lược và nằm ở ngoại vi tiểu thuyết.

Tóm lại, Bèo giạt dễ đọc hơn ba cuốn trước nhờ lối kể chuyện của tác giả. Nhưng cũng như toàn bộ Mùa biển động, tác phẩm mang nặng tâm tình của tác giả – một Nguyễn Mộng Giác bớt say đắm và trầm tĩnh hơn.

Mà kỷ niệm vẫn thiết tha, đằm thắm: tiếng cửa sắt mở hé ở tòa soạn Bách Khoa; tiếng đánh máy chữ lóc cóc giữa tiếng ì ầm của máy in, ở tòa soạn báo Văn, hai chữ «tình thân» ở cuối thư, vẫn còn gợi nhiều âm hưởng da diết đối với nhiều người, trong đó có Nguyễn Mộng Giác, có cả tôi: chúng tôi bắt đầu yêu, yêu cuộc sống, yêu văn chương qua những âm hưởng đó. Và nay, đọc lại Nguyễn Mộng Giác, sau bao nhiêu mùa biển động, bầu trời trong tôi bỗng ánh ỏi rất nhiều tiếng chim vườn cũ.

29 tháng giêng 1990

Tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác:

VỀ THỂ LOẠI

Tiểu thuyết trường thiên

 

Đặng Tiến.

Trường thiên tiểu thuyết là thuật ngữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng để gọi thể loại mà ông sử dụng khi viết Mùa biển động: một tiểu thuyết dài nhiều lần hơn mức trung bình, chia thành nhiều tập, đưa ra một tuyến nhiều nhân vật, sống trong một giai đoạn lịch sử dài, và những hoàn cảnh khác nhau.

Có thể nói Nguyễn mộng Giác là «  chuyên gia » về thể loại này : ông còn là tác giả bộ tiểu thuyết lịch sử, lấy thời kỳ Tây Sơn làm bối cảnh, bộ truyện Sông Côn Mùa Lũ, bốn cuốn, dài khoảng 2000 trang, viết tại Sài Gòn từ tháng 3 đến tháng 8- 1981, tu chính tạiHoa Kỳ 1990, và nhà An Tiêm của Thanh Tuệ xuất bản, cùng năm, tại Cachan- Paris và California. Sách được tái bản trong nước, tôi không nhớ xuất xứ, vì tôi có một bộ nhưng đã gửi tặng…tác giả ! Sách, vì ấn hành trong nước, đã gây tai tiếng và phiền hà cho người viết tại Mỹ.

Như vậy, mấy chữ trường thiên tiểu thuyết đã mất nghĩa đầu tiên của nó: trước kia, nó chỉ là truyện dài, khác với trung thiên tiểu thuyết là truyện vừa, và đoản thiên tiểu thuyết là truyện ngắn. Từ ngày báo Phong Hóa, năm 1932, đưa ra từ truyện ngắn, thì dần dần người ta chỉ còn dùng hai chữ truyện dài, truyện ngắn. Cũng cần thêm rằng, hai chữ truyện ngắn mượn của người Anh, dịch từ short story, chớ người Pháp và ngườiTrung Quốc, thầy ta lúc ấy, không có khái niệm truyện ngắn, hiểu theo quan niệm bây giờ.

Tiểu thuyết trường thiên không phải là một phát minh son trẻ.  Đông Châu liệt quốc hay Tam quốc chí đã là truyện trường thiên hay, đọc lại không chán và không thấy dài. Người Pháp có truyền thống tiểu thuyết trường thiên từ Rabelais đến Balzac, Zola, Jules Romain, v.v.

Ở Việt Nam, người thí nghiệm tiểu thuyết trường thiên đầu tiên có lẽ là Nhất Linh, phần nào dưới ảnh hưởng của các tác gia Pháp nói trên, và một số tác phẩm bề thế khác của Tolstoi mà ông rất hâm mộ. Ông trình bày quan niệm và dự tính sáng tác qua lời giới thiệu bộ truyện Xóm Cầu Mới, khởi thảo từ 1940 viết dang dở và in năm 1973: «Xóm Cầu Mới là bộ trường giang tiểu thuyết gồm một loạt truyện dài, đặt dưới tên chung Xóm Cầu Mới. Mỗi truyện dài lại có tên riêng. Những truyện dài có liên can hoặc xa hoặc gần đến cái xóm Cầu Mới, mà các nhân vật chính hay phụ phần nhiều lấy ở số người tới ngụ cư trong xóm. Tuy có cái tên chung, và tuy các nhân vật có thể có mặt ở trong hết cả hay một số lớn các truyện, nhưng độc giả có thể đọc một truyện mà không cần đọc truyện khác cũng không bị thắc mắc hay ngơ ngác […]. Tôi mong viết độ hai chục cuốn nữa thành một bộ gần vạn trang mới đủ để tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời.».

Đoạn trích dẫn dông dài, nhưng nói lên được những nét chính của thể loại tiểu thuyết trường thiên – thời  đó gọi là trường giang – như các tác gia phương Tây đã quan niệm. Ý định Nhất Linh chỉ thực hiện được một phần mười: hai tập Xóm Cầu Mới chỉ ngoài 700 trang là đi trước ; nhà Phượng Giang đã xuất bản mười năm sau khi Nhất Linh quá cố, ngày nay gia đình đã in lại, có phụ lục hồ sơ sáng tác, nxb Văn Mới, 2002, California,  Xóm Cầu Mới là một tác phẩm hay, hành văn giản dị, các nhân vật được mô tả tinh vi trong dáng điệu, lời nói, nếp suy nghĩ và rung cảm. Đời sống hàng ngày của những con người tầm thường trong một xã hội tầm thường, đó là nội dung nghệ thuật Nhất Linh mà ít người đạt tới.

Bộ Dòng sông Thanh Thủy gồm ba cuốn: Ba người bộ hành, Chi bộ hai người và Vọng quốc, tổng cộng hơn 600 trang, Nhất Linh viết rất nhanh, ba bốn tháng gì đó (1960-61). Tác phẩm kể lại hoạt động chính trị của một số cán bộ Việt Quốc và Việt Minh sang hoạt động tại Côn Minh khoảng 1944. Tuy có hình thức một tiểu thuyết trường thiên, nhưng Dòng sông Thanh Thủy chỉ là một truyện dài, vì chỉ mô tả số phận một vài nhân vật chính, chứ không gợi ra được một khung cảnh xã hội lớn lao. Điều đó nhắc lại rằng: tiểu thuyết trường thiên, hay chu kỳ, không phải do số trang, mà còn do cơ cấu nội tại. Những kẻ khốn nạn (Les missérables) của Victor Hugo hay Jean-Christophe của Romain Rolland, thậm chí Đi tìm thời gian đã mất (A la recherche du temps perdu) của Marcel Proust, tuy là dài, vẫn không phải là tiểu thuyết chu kỳ. Ở Việt Nam, hai tập Bão biển (1969) và Đất mặn củaChu Văn, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn (1985) là truyện dài, nhưng Vỡ bờ hai tập (1962 và 1970) của Nguyễn Đình Thi, tuy gọi là tiểu thuyết, lại mang vóc dáng một tác phẩm trường thiên, vì  tính cách sử thi đã làm sống lại cả xã hội miền Bắc trong năm năm chuyển mình, chuẩn bị cuộc Cách mạng tháng Tám. Vỡ bờ thuộc vào tác phẩm lớn lao, đã được tác giả ôm ấp và sáng tác trong hai mươi năm, từ 1948. Những tiểu thuyết riêng lẻ của Tô Hoài, từ Quê Người, 1941, Giăng Thề , 1944 đến Mười Năm 1957, lấy làng dệt Nghĩa Đô làm khung cảnh, cũng mang dáng dấp tiểu thuyết chu kỳ ; trong ý tác giả, dường như Người ven thành, 1972, và Quê Nhà, 1981, cũng nằm trong chu kỳ này.

Ở miền Nam trước 1975, Khu rừng lau của Doãn Quốc Sĩ là một bộ trường thiên quan trọng vì ghi lại tâm trạng một lớp thanh niên theo kháng chiến chống Pháp rồi bỏ kháng chiến, di cư vào Nam. Những truyện của Võ Hồng gom lại, cũng có tính cách trường thiên tiểu thuyết về đời sống tại miền nam Trung bộ thời kháng chiến chống Pháp.

Tiểu thuyết trường thiên tiêu biểu của văn học Việt Nam là bộ Cửa biển của Nguyên Hồng, khoảng hai nghìn trang, chia ra làm bốn cuốn: Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), mô tả đời sống cay cực của lớp người nghèo tại thành phố cửa biển Hải Phòng trong mười năm 1936-1945, đã vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám.

Bộ sách viết trong mười lăm năm (1959-74), thời gian đó Nguyên Hồng không làm việc gì khác, và đi đâu cũng khệ nệ tập bản thảo, sợ … mất. Trong hồi ký Những nhân vật ấy đã sống với tôi (1978), ông đã kể lại kinh nghiệm sáng tác Cửa biển, sự thành hình những nhân vật nhô lên từ ký ức hay thực tại, quá trình tái sinh những sự kiện, những hình ảnh. Đây là một hồ sơ sáng tác quí hiếm, nếu không phải là duy nhất giúp ta tìm hiểu sự thai nghén và khai hoa một tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Hồng đã thổ lộ nỗi vất vả và vật vã của kẻ «đã thai nghén và mang rất nặng, đẻ thì đau quá sức lẽ mình, vậy mà lại đẻ ra người giấy, nhân vật giấy»: «Năm 1959, tôi bắt đầu viết tập đầu là tập Sóng gầm trong bộ Cửa biển. […] Sang năm 1960 thì được hơn 150 trang bản thảo, giấy là mặt sau của trang sổ khổ rộng, giấy màu hồng hồng, của một công sở hay nhà buôn gì đó hồi Pháp thuộc bỏ lại […]. Bốn, năm chương của tập đầu đã thành chữ với hơn 150 trang kia, chính mình đọc mà cũng chán ngấy. Chán vì nó nhạt hoét, giả khượt. Mà nó nhạt hoét, giả khượt vì sáo mòn, dễ dàng, nông choèn […]. Tôi bỏ hẳn tập bản thảo đầu với hơn 150 trang khổ rộng, giấy màu hồng hồng nọ. Tôi viết tập bản thảo hai, bản thảo ba. Nhà tôi chép lại, tôi lại sửa và đưa đăng báo mấy chương. Đánh máy, đăng báo rồi (Báo Văn nghệ 1961), tôi lại sửa. Đưa nhà xuất bản, đánh máy duyệt in, vẫn sửa. Thành trang đưa đọc để máy chạy trọn vẹn, cũng vẫn sửa… Vẫn sợ nhạt loãng, vẫn lo sự giả tạo, vẫn phải sao thật tỉnh táo với chính mình nếu có chút gì gian dối. »

Ấy là Nguyên Hồng đã sáng tác trong hoàn cảnh ưu đãi của xã hội mà ông phục vụ, vì đã đăng ký đề cương sáng tác với Hội nhà văn, ký giao kèo sáng tác trong mười năm… Chứ thật ra Cửu biển đã được ấp ủ từ 1941. Từ khi khởi thảo tác phẩm, đến Khi đứa con ra đời ( !), 1976, là 35 năm, thời gian dài hơn hai cuộc kháng chiến cộng lại. Và phần gian lao ắt cũng tương đương. Kết quả đáp ứng xứng đáng với công lao động ấy: Cửa biển của Nguyên Hồng là tác phẩm quan trọng hàng đầu trong ngành tiểu thuyết Việt Nam, ở tầm vóc của nó, và ở giá trị nhân đạo, xã hội, lịch sử và nghệ thuật nữa.

Gần đây hơn,Phan Tứ đã viết bộ tiểu thuyết trường thiên Người cùng quê, về xã hội tại địa phương vùng nam Trung bộ, chủ yếu là Quy Nhơn, đã xuất bản ba tập (1985, 1995, 1997) khoảng1500 trang. Chúng tôi không biết những tập sau. .

Tiểu thuyết trường thiên đòi hỏi sức lao động bền bỉ, và hoàn cảnh sáng tác thuận lợi, dù ở mức tương đối.  Nhưng công trình có khi bạc bẽo: trong xã hội nhiều đột biến như Việt Nam từ mấy mươi năm nay, có khi tác phẩm viết xong rồi – hai mươi năm sau – thì không còn đáp ứng với sở thích người đọc, như trường hợp Xóm Cầu Mới của Nhất Linh. Khối độc giả mới, đa số là thanh niên, không còn thư thái để nhâm nhi những tinh vi, tế nhị của Nhất Linh, nhưng tác phẩm cũng gây một ảnh hưởng nào đó trong tiến trình tiểu thuyết, mà ta gặp lại trong tiêu đề Bèo giạt của Nguyễn Mộng Giác, là một trong những tên cũ của Xóm Cầu Mới.

Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng cũng chịu số phận lao đao, vì những lý do khác. Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi là những người cộng sản trung kiên, đã đi theo cách mạng từ thời kỳ trứng nước, đã vào tù, ra khám, đã trưởng thành trong chiến đấu, đã quán triệt mọi lập trường, quan điểm, yêu cầu giai cấp. Thế mà khi tác phẩm in ra thì bị các nhà phê bình tuyên huấn hạch sách trăm thứ bà dằng, đến độ bố Thi cáu sườn, trả lời đại khái là: tôi là người buôn ngựa, các anh là kẻ lái trâu, nên đã chê ngựa tôi… không có sừng.

Những truyện của Tô Hoài, người đã theo cách mạng rất sớm, viết về những người thợ dệt làng Nghĩa Đô, quê ông, ở ngoại thành Hà Nội, thu vén lại cũng thành trường thiên tiểu thuyết: đó là hoài bão của ông khi ông viết truyện Mười năm (1957) mà ông đã thai nghén trong … mười năm. Khi sách xuất bản, bị đập tơi bời – vì sai lập trường cách mạng, không nêu lên được «con người mới». Tô Hoài chán, một thời gian, không viết nữa. Những người lãnh đạo Việt Nam phải chịu trách nhiệm về sự bế tắc của tiểu thuyết Việt Nam.

Tiểu thuyết xưa nay vẫn là niềm an ủi của quần hùng chiến bại, là tiếng kèn bi thảm của hiệp sĩ Roland từ đèo Roncevaux đáp lại lời kêu cứu thất thanh của Quan Công khi thất thủ Kinh Châu, là tâm sự của Từ Hải, chết rồi còn đứng giữa trận tiền để đợi chàng Julien Sorel rụng đầu bên máy chém. Tiểu thuyết, nơi hẹn hò của những Hạng Võ khi biệt Ngu Cơ. Ngược lại lịch sử là triều đình của những người chiến thắng, của Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Câu Tiễn, Trần Thủ Độ, Đặng Trần Thường, tiểu thuyết là lối về của người chiến bại, những Kinh Kha, Ngũ Tử Tư hay Ngô Thời Nhậm. Trong đám tàn quân rã ngũ đó, có cả nhân vật Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác – và có lẽ có cả Nguyễn Mộng Giác.  Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, ở một chân trời khác, thì lật ngược quy luật: các nhân vật chính và chính diện – con người mới – sau khi chiếm đoạt lịch sử thì chế ngự luôn cả nghệ thuật; họ làm anh hùng hai lần, chỉ với một mũi tên; họ xe duyên với Thúy Vân rồi ép duyên cả Thúy Kiều, họ có cái vẻ vang luộm thuộm lẫn cái hạnh phúc lúng túng của những người đàn ông hai vợ.

Ngày nay, mấy chữ tiểu thuyết trường thiên nghe nó xa xôi quá. Cứ gọi là bộ truyện Cửa biển, Mùa biển động, Sông Côn mùa lũ, nghe gần gũi hơn, và đúng hơn. Vì khái niệm tiểu thuyết, du nhập từ phương Tây, từ thời kỳ này sang thời đại khác, đã nhiều lần biến chất, và hiện nay là một văn loại đang tự hủy hay băng hoại trước nhưng thể loại khác và phương tiện truyền thông mới. Cái còn lại là cốt lõi, là phần « truyện », hiểu theo nghĩa nôm na: truyện Tam Quốc, truyện Thạch Sanh. Khi mọi người đều nói truyện Mùa Biển Động, thì Nguyễn Mộng Giác có quyền sung sướng.

Đặng Tiến

Orleans, 05 tháng hai 1990, đọc lại và cập nhật 02-7- 2012,

 để tưởng niệm Nguyễn mộng Giác


[1] Mùa biển động, năm tập đều do nhà Văn nghệ (California) xuất bản; tập cuối Tha hương, 1989, giá 21 đôla Mỹ. Địa chỉ: P. O. Box 2301, Westminster, CA 92683, USA.

[2] Cửa biển, gồm có Sóng ngầm (1961), Cơn bão đã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), đều do nhà Văn học xuất bản, Hà Nội. Riêng Sóng ngầm in lại trong Tuyển tập III Nguyên Hồng, nxb Văn học, Hà nội, 1985.

[3] Ngựa nản chân bon, 1984, Xuôi dòng, 1987, nxb Văn nghệ, California.

[4] Nguyễn Mộng Giác, Tha hương, sách đã dẫn, tr. 1860 và 1853

[5] Lời giới thiệu ở trang bìa.

[6] Nhật Tiến, tạp chí Văn học số 39, tháng 4-89, California, tr. 45.