DƯ LUẬN

GỒM NHỮNG BÀI VIẾT:

01.Tác phẩm “Lạc Đường” và dư  luận

02.Từ Lạc Đường đến Lã Bất Vi

03.Suy nghĩ về bài “Những Lã Bất Vi…” 

04.Có phải tất cả do Lã Bất Vi? 

05.Ý kiến về Lạc Đường

06.Đào Hiếu và Lạc Đường

07.Thế là có được một Đào Hiếu

08.Thư của một nhà điêu khắc trẻ

09.Những phản hồi từ tác phẩm Mạt Lộ

10.Đọc và xem Mạt Lộ

11.Vì sao nhiều người đọc Lạc Đường? 

12. Đào Hiếu trả lời phỏng vấn website Da Màu và Việt Báo

13. Chung quanh tác phẩm Nổi Loạn

14. Đào Hiếu và một ngôi trường

15. Ngọn lửa nhò giữa cuộc đời mênh mông

16. Suy nghĩ về những mối tình trong tác phẩm của Đào Hiếu 

17. Cảm nhận tính cách và văn phong Đào Hiếu

18.Đào Hiếu, ông là ai?

  

1.Tác phẩm LẠC ĐƯỜNG và dư luận

 

PHẠM THỊ HOÀI 

(Nhà văn, Tổng biên tập Talawas)

…Rất ít tác phẩm văn học ViệtNamgần đây có thể thật sự làm cho độc giả buồn. Anh đã viết được một tác phẩm thuộc về số ít như vậy.

…Nhiều “người quen” của anh đang ở hải ngoại ngạc nhiên thích thú khi nhìn thấy cuốn tự truyện này xuất hiện một cách… bất ngờ như vậy. Mong anh nhận được nhiều chia sẻ của độc giả, bạn bè, người quen và những người chưa quen.

…Tính đến lúc này, tổng cộng có 15.333 người đã đọc cuốn Lạc Đường trên trang Talawas. Trang Viet-studies của anh Trần Hữu Dũng cũng đăng lại toàn bộ, bên đó lại có lượng độc giả khác nữa.

LÊ HẢI 

(Đài BBC Luân Đôn)

Mới đọc xong tự truyện của anh đăng trên Talawas, rất khâm phục và chia sẻ với anh nhiều suy nghĩ triết lý mà anh đã nêu trong đó. Bây giờ anh đang sống ở đâu? Có thể cho BBC một cái phỏng vấn ngắn để giới thiệu quyển sách của anh được không?

TRẦN HỮU DŨNG

(viet-studies – Hoa Kỳ)

Đáng lẽ ra chúng tôi (tôi và độc giả) phải cám ơn anh mới đúng. Từ sáng đến giờ tôi đã nhận được vài chục email nói như vậy!

Tôi có đề nghị thêm này: để Tự Truyện được hấp dẫn hơn, anh có thể cho tôi xin (và đăng càng nhiều cáng tốt!) những tấm ảnh kèm theo không?  Nhất là những tấm ảnh mà anh có, về những nhân vật liên hệ.

TIÊU DAO BẢO CỰ 

(nhà văn)

…Hồi ký này, với văn phong tiểu thuyết, có một số trang có thể nói là tuyệt bút của một nhà văn tài hoa. Ngoài những hồi ức về chuyện cũ, phần quan trọng là suy tư của tác giả về thời thế, về giai đoạn lịch sử mà tác giả đã sống trải. Đào Hiếu đã thất vọng và phê phán nặng nề, đôi khi đích danh hay gần như đích danh một số người là “đồng chí” cũ, khi làm quan chức, đã thoái hóa, trở thành những tên cặn bã, trong một xã hội đầy rẫy những những điều tệ hại, dối trá. Đặc biệt Đào Hiếu lên án chính quyền hiện tại và hầu hết mọi loại chính quyền trên thế giới, không tin vào các chính trị gia và thất vọng về cả nhân dân. Tác phẩm còn bộc lộ nhiều vấn đề tư tưởng, triết lý, chính trị trên bình diện rộng lớn toàn nhân loại, nhưng ở đây tôi chỉ muốn chú ý khía cạnh liên quan đến đề tài bài viết này là Đào Hiếu không hề có ý phản tỉnh về chuyện đúng sai của việc mình đã “tham gia cách mạng” trong quá khứ.

(Trích từ bài “Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường…”  Talawas 17.4.2008)

LY HOÀNG LY

(Nhà thơ)

Dù đã làm việc cùng một cơ quan 8 năm nhưng chắc chú cháu mình chỉ nói được vài ba câu xã giao, vì tính cháu quá khép kín, cô độc. Chú lại là người lớn, thanh niên không tự đến bắt chuyện  thì mắc gì chú phải ngó tới. Nhưng đọc xong truyện của chú, cháu thấy chú thật gần gũi hơn bao giờ hết. Truyện vừa làm cháu buồn vừa làm cháu vui. Những trang viết khuấy động nỗi buồn sẵn có của cháu. Vui vì không ngờ có một ngày cháu lại được gặp chú bằng xương thịt, thấy được tâm hồn của chú qua trang giấy, thấy quý vô cùng.

Đây là lần đầu tiên cháu viết thư thăm chú. Cháu cũng thấy là: tác phẩm đã đem con người xích lại gần nhau hơn mọi giao tiếp, lời nói.

BẢO NINH

(nhà văn)

Tết nhậu nhiều, lừ đừ, không chúc Tết bác sớm. Đọc tác phẩm của bác một mạch. Xúc cảm vô cùng. Thật hay. Thật buồn. Nhưng vui, vì dù sao chúng ta vẫn thế, vẫn mãi mãi như xưa, lòng mình như vậy. Ngoài sự hay, tác phẩm còn dạy tôi nhiều điều về Sài Gòn và MiềnNam.

 Ý NHI

(nhà thơ)

Tôi vừa đọc xong Lạc Đường. Có lẽ là rất muộn so với thời điểm tác phẩm xuất hiện? Tôi vốn chậm chạp mà. Tôi đã đọc các chương một cách liên tục vì chúng rất hấp dẫn. Mỗi chương gần như đều độc lập nhưng vẫn giữ được mối liên hệ máu thịt với các chương khác.

Nhưng điều đáng nói hơn cả chính là tư tưởng của tác phẩm. Cuối cùng, dù cay đắng, đau đớn, chúng ta đã ngộ ra sự lạc đường của mình. Còn khối người không nhận ra điều này.

Nhân vật Dã Nhân rất hay. Chúc mừng anh.

NGUYỄN THỊ HOÀNG BẮC

(mochuong2002@yahoo.com)

…Đọc xong, tôi nghĩ, có thể nhiều độc giả cũng nghĩ như tôi là: anh đã lên tới chín tầng trời và xuống tới mười tầng địa ngục rồi, đã đi cho biết mặt sơn hà, đã kinh qua đủ loại người như thế, lẽ ra kết luận phải là tiếng reo lên ầm ĩ: “Eureka!Eureka! Mới phải chứ! Sao anh lại…buồn tênh?

Tôi cũng là người Trung, viết văn, học đại học sư phạm Sài Gòn như anh, nhưng chuyện đời tôi đâu có “tuyệt cú mèo” như đời anh. Huống chi anh đã qua hết rồi, đã qua rồi. Tôi mà như anh thì tôi phải hét lên: “Tôi hạnh phúc! Tôi đang hạnh phúc quá!”

Tôi đang ở Mỹ, bây giờ anh đang ở đâu? Sông Kôn? Đèo Nai? Anh cho địa chỉ, khi nào về tôi sẽ mời anh uống càphê. Hay là anh thích uống rượu? Tôi là “chị kết nghĩa” của Thản Nhiên và Lyn Bacardi đang ở Sài Gòn, sẽ thi đua uống rượu với anh đấy.

Tôi chỉ muốn gửi những lời thành thật nhất đến anh: anh đang hạnh phúc mà không biết hưởng, thật uổng.

Nói theo tiếng Mỹ thì: wake up! be happy! you deserve it!

ĐẶNG VĂN LŨY

(Luy.Dang@sciatl.com)

Rất thích thú với tự truyện “Lạc Đuờng” của anh. Trong đó có tuổi trẻ ngày xưa của chúng tôi. Cám ơn anh đã reply.

Tôi đang ở Mỹ. Hy vọng được gặp anh trong một tường lai nào đó nếu hữu duyên. Đọc xong truyện của anh, lòng cảm khái vô cùng. Thích thú vì có người như anh, như Dã Nhân trong đời sống.

ĐẶNG DŨNG

MP: 0907391657

…Có thể hiểu tác phẩm của anh như một dự báo điều mà Egenne Evtuchenko đã nói: Tôi không còn lo ngại nữa. Những gì tôi đã viết sẽ xâm nhập vào quần chúng và ngày đó sẽ đến. Điều đó đã xảy ra 30 năm sau cho USSR còn dân tộc chúng ta, chẳng lẽ yếu hèn?

Chẳng lẽ đó là thiên tai, phải sống chung với lũ và không làm gì hết hay sao?

Mong là anh có thể viết và viết nhiều hơn nữa cho chúng tôi những người Saigon thao thức và cái đa số thầm lặng này, thấy được  tác phẩm của anh là một dự báo cho cuộc cách mạng thứ hai tại VN.

ĐỒNG SỸ TIẾN

(tiensydong@yahoo.com.vn)

Tôi tình cờ đọc được một số tác phẩm của anh trên trang web của BBC. Kính gửi đến anh lòng yêu mến chân thành nhất vì tôi trước đây cũng là một SV trước ngày giải phóng và phần nào cũng có những cảm xúc như anh trong cuộc sống. Rất mong được đọc tác phẩm ”Nổi Loạn” mà anh có nhắc đến trong “Lạc Đường”.

NGUYỄN ĐỨC HIỆP

(hduc@yahoo.com)

Qua anh Trần Hữu Dũng ở trên mạng viet-studies và mạng talawas, có đọc tập tự truyện của anh, thấy trở lại thời của thập niên 1970, đến nay những gì đang diễn ra trên quê hương rất đúng tâm trạng của tôi và nhiều người khác.

Tôi cũng ở Miền Nam nhưng đến năm 1974 thì sang Úc du học và tham gia phong trào Việt kiều yêu nước nên rất thấm những gì anh viết. Cám ơn anh đã viết rất thật và thẳng thắn về những gì anh nhận thấy.

CHU HƯNG

(hchu@berklee.edu)

Assistant Director-Financial Aid Office. Berklee College of Music

Ngoài việc chán xem TV thì lại còn vụ Lagrima của Tarrega nữa. Chắc vì vậy mà mình thích Lạc Đường chăng? Cũng thật tình cờ dịp tết vừa rồi mình cùng các bạn gặp mặt tại nhà bác Bi nhân dịp mình và Thach Thao ra Hà Nội. Trong cuộc truyện trò vui vẻ đầu xuân cùng TaLaWho?, ViedBi, Hoai Nghia Chat, 2Ti, Thach Thao, mình nổi hứng thử tiếng cây đàn của bác Bi bằng bản Lagrima này khi đã ngà ngà hơi men. Đàn rất được nhưng ngón tay bị thương mà trời lại quá lạnh nên cứng ngắc, lại có rượu nữa nên nghe cứ như bật bông, mổ cò vậy.

Đọc đoạn tự truyện trên của Đào Hiếu mình muốn nghe lại bản Lagrima này.

NGUYỄN KHANG

(khang0255nguyen@hotmail.com)

Tôi có nghe anh trả lời phỏng vấn trên đài BBC với giọng Bình Định quen thuộc, lòng tôi thật sự có rất nhiều thiện cảm đối với anh. Dù rằng tôi thuộc thế hệ đàn em, sau anh hơn một thập niên.

Rất cảm kích trước những lời phát biểu thẳng thắn của anh trên đài BBC như thể tôi chưa một lần nào nghe được những điều cay đắng từ trong nước gởi ra.

Có đôi điều tôi không đồng ý với anh khi đọc xong truyện Lạc Đường. Nhưng dù sao cũng là một cuốn sách hay, đáng đọc và nên đọc.

PHẠM CÔNG PHƯỚC

(phuoceast@yahoo.c)

Hôm nay cháu vừa đọc xong Lạc Đường của chú. Cháu là dân kỹ thuật, không am hiểu về văn chương nhưng thú thực thấy giọng văn của chú rất thú vị.

Chúc chú dồi dào sức khoẻ và tiếp tục cho ra đời những tác phẩm hay trong thời gian tới.

NHẬT HỒNG

(kiem_khach_vo_tinh76@yahoo.com)

Cháu vừa đọc xong tự truyện Lạc Đường của chú, cháu thấy rất hay và rất bổ ích. Tự truyện đã đem lại cho cháu một cái nhìn nhiều chiều về xã hội loài người. Cháu rất thích nhân vật Dã Nhân. Cháu thích những đoạn nói về triết học, đạo thiền.

 HOÀNG HỒ

(hoanghoirvine@gmail.com)

Anh vẫn chỉ là một thằng Việt cộng ngu xuẩn như 35 năm về trước thôi…chả khác gì.

 LÊ DUY THIỆN

(thienleduy@yahoo.com)

Tôi bắt gặp bác trên trang web của Trần Hữu Dũng. Đọc và thấy, thấy nhiều nỗi niềm, nhưng ở đó bác lại nhận là lạc đường. Còn tôi, tôi là một tay chẳng biết gì và đang cảm thấy mình không còn trẻ nữa.

Từ mười năm nay tôi thấy mình như dừng lại, dừng đã lâu và chẳng biết khi nào đi nữa. Đi về đâu?

Bác đang đi đâu vậy? Đang đi đâu mà nhận là lạc đường? Nếu thấy một tay Không Còn Trẻ Nữa đang đứng bên đường… thì mong vì một chút tình mà nói giùm cho một tiếng. Mong lắm thay!

H T

(nt_2h@yahoo.com)

Qua đài BBC con có đọc tự truyện Lạc Đường của chú, tuy chưa có thời gian đọc hết nhưng con cảm nhận nơi một người tâm huyết, yêu nước và ray rức với những giá trị của dân tộc đang bị mai một.

Khi viếng thăm website cá nhân của chú.  Có lẽ đây là trang cá nhân do chú tự làm.. Khá đơn điệu và khó đọc…. Là web tĩnh nên con nghĩ chú mất rất nhiều thời gian để cập nhật thông tin trên đó. Vì vậy con muốn tặng chú một website thiết kế chuyên nghiệp và tiện dụng hơn cho việc cập nhật thông tin của chú. Đây là việc làm cá nhân xuất phát từ sự chân thành đối với một người còn “sót lại” có ý nghĩa.

NGUYỄN KIM BÌNH

(trích đoạn)

Tôi đọc Lạc Đường của Đào Hiếu với nhiều tò mò, thích thú cao độ. Tác phẩm lôi cuốn, nhiều chi tiết có thật lý thú, nhiều tên tuổi quen thuộc. Ngay cái tựa cũng rất ý nghĩa.

…Qua cuốn sách này, kết luận của tôi về những lãnh tụ sinh viên tranh đấu ngày nào, như sau:

-Với những người đã tham gia đấu tranh do thúc đẩy bởi lòng hận thù, ganh ghét; bởi sự dẫn dắt hay khích động sai lạc của người khác (nói chung vì thù hận), nếu may mắn sống sót khi thành công, họ chắc chắn trở thành những “ông quan cách mạng” đam mê quyền lực. Họ ung dung thừa hưởng thành quả “gọi là” đấu tranh của mình (nếu không/chưa bị vào tù vì lòng tham quá độ.)

-Với những người mà động cơ thúc đẩy tham gia đấu tranh là do thương cảm trước những bất công của người bị áp bức, vì lòng ái quốc thật sự (nói chung vì tình thương yêu), thì sau khi thắng lợi, vì bản tánh lương thiện, vì khí tiết, đại đa số dần dần bị hất ra ngoài vòng danh lợi, bị các đồng chí cũ xa rời, thậm chí trù dập, có khi phải nổi trôi trong xã hội.

Điều rõ ràng nhất là những cái tên quen thuộc đó tôi hầu như chưa từng nghe thấy nhắc đến trong các bản tin, bài viết liên quan đến việc tranh đấu cho những bất công, khốn khó, vẫn còn đầy dẫy trong nước của công nhân, người dân lao động nghèo khó hiện nay. Vậy mà có một thời họ đã cao giọng hò hét tranh đấu cho công bằng.

TRẦN ANH

(trananh0321@yahoo.com)

Rất cám ơn anh vì đã thể hiện những cảm xúc thật và sự chân thành của lớp người đi trước qua “Lạc Đường”. Những hoài bão và khát vọng tuổi trẻ của lớp các anh cũng như thế hệ đi sau các anh đã từng bị xói mòn vì sự quỷ quyệt xảo trá của trò hề chính trị và các nhãn hiệu mà tôi chắc rằng sẽ bị tiêu hủy bởi thời gian và sự trải nghiệm của nhiều thế hệ nữa.

HÀ XUÂN THẾ

(xuantheha3412@yahoo.com)

Tôi vừa đọc xong hồi ký của anh. Cả một núi tư liệu sống quí giá của một cuộc đời năng động đẹp đẽ. Một phong cách viết bút ký tài hoa, uyên bác. Cảm ơn anh đã truyền lại cho xã hội những kinh nghiệm sống hiếm có của một cuộc nhân sinh giàu kịch tính luôn hướng về lý tưởng cao đẹp.

Nguồn: 21.6.2008

 

2.TIÊU DAO BẢO CỰ:

Từ lạc đường, phản tỉnh đến những Lã Bất Vi…

Mới đọc qua Lạc Đường của Đào Hiếu một lần, tôi chưa hiểu được ý nghĩa của tựa đề này. Lạc đường vào lịch sử? Lịch sử lạc đường? Đầu thai lầm thế kỷ? Lạc đường vào tương lai?… Chắc chắn tác giả phải có hàm ý, có điều khó nhận ra.

Trong bài viết “Từ bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường…” tôi có phân tích đôi chút về cuốn Lạc đường và nói đến chuyện “phản tỉnh”. Thực ra tôi không cố ý trách Đào Hiếu không phản tỉnh, mà chỉ ghi nhận thái độ không phản tỉnh về quá khứ của anh khi đọc hết tác phẩm. Thái độ đó liên quan đến chuyện mà tôi gọi là “hội chứng chính nghĩa” trong bài viết nói trên.

 “Hội chứng chính nghĩa” này quả là một một đề tài “khó chơi”, một “ổ kiến lửa” khi đụng vào. Trước đây vài năm mấy bài viết của tôi về đề tài này đã gây ra những cuộc tranh luận gay cấn, nẩy lửa trên website Đàn Chim Việt, gần đây mấy bài viết khác của tôi trên talawas cũng gây ra hiệu ứng tương tự, tuy mức độ nhẹ hơn.

Những bài viết của tôi trên talawas có tựa đề “Tỉnh thức, cảnh giác, nhưng thông cảm và bao dung”, “Nan đề nào? Nan đề cho ai?”, “Cùng nhau hướng đến tương lai” để trao đổi với các bài viết của Phong Uyên, Phương Duy, Hồ Phú Bông và mới đây với Trần Văn Tích trong một vài bài viết khác. Khi chưa, hay không thể đồng ý với nhau, tôi thống nhất với đề nghị của Phương Duy là tạm thời “đồng ý về những bất đồng” của quá khứ để có thể hòa giải với nhau, cùng bắt tay giải quyết những vấn đề của hôm nay và ngày mai.

Vấn đề đó lắng đi một thời gian, bây giờ lại nổi lên với “Những Lã Bất Vi thời đại mới” của Đào Hiếu, qua những “ý kiến ngắn” xem ra cũng không kém phần gay cấn.

Hoàn cảnh của tôi và Đào Hiếu gần giống nhau, nhưng không như nhận xét của anh, thời đó tôi không lựa chọn vì nghĩ đến Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp hay chủ nghĩa cộng sản. Tôi vốn không tôn thờ bất cứ thần tượng nào và cũng không có thời gian nghiên cứu sâu về chủ nghĩa. Đơn giản chỉ vì muốn chấm dứt chiến tranh, chấm dứt sự can thiệp của ngoại bang, đòi tự do dân chủ, chống bất công áp bức (một “lý tưởng cộng sản” đã có sức hấp dẫn hàng triệu người trên thế giới trong một giai đoạn, không phải chủ nghĩa và chế độ cộng sản như đã từng có).

Sau các cuộc đấu tranh đường phố với sinh viên học sinh không có hiệu quả như mong muốn, trong các phe phái ở miền Nam lúc đó, tôi nghĩ chỉ có Mặt trận Giải phóng (MTGP) là có khả năng làm được điều mình mong muốn. Dĩ nhiên tôi cũng không có điều kiện tìm hiểu sâu về MTGP và quyết định phải dấn thân vì sự bức xúc của tâm trạng và thời thế trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng.

Trong cuộc chiến tranh trước đây, mọi người ở hai miền Nam-Bắc đều đã lựa chọn hay bị lựa chọn, không ai thoát khỏi dòng cuốn của lịch sử. Sau 1975 dù mọi chuyện đã ngã ngũ, khi nhìn lại, nhiều người vẫn còn nhìn nhận khác nhau vì miền Bắc đã thắng trận, thống nhất đất nước nhưng lại xây dựng một chế độ và xã hội quá tệ hại. Những người thuộc Việt Nam Cộng hòa cho rằng dù thất bại, mình vẫn có chính nghĩa vì đã chiến đấu bảo vệ miền Nam, một chế độ xã hội có tự do dân chủ hơn hiện nay. Những người thuộc thành phần thứ ba, theo MTGP và ngay cả một số người ở miền Bắc cũng cho rằng mình bị lừa bịp, phản bội. Nếu sau 1975, Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có dân chủ tự do, nhận thức của mọi người sẽ không chia rẽ đến thế. Nhưng lịch sử không có chữ “nếu”.

Khi nhìn lại quá khứ, đối với những lựa chọn thời trẻ, ít ai hối hận về những gì mình đã tham dự, nếu không nói là vẫn còn kiêu hãnh và tự hào. Phản tỉnh là một việc khó khăn và thường khi phản tỉnh, người ta lại thấy lỗi của người khác chứ không phải của mình. Tôi đã từng đưa ra đề nghị về một cuộc sám hối của toàn dân tộc nhưng lập tức có nhiều người phản bác ngay và bảo họ chẳng có tội gì để phải sám hối, chỉ có những kẻ ác nào đó trong cuộc chiến mới phải làm việc này.

Có người nêu ra nhận định mang mầu sắc tâm linh, cho rằng đây là cộng nghiệp của dân tộc, người Việt Nam vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm gây ra tội lỗi cho chính dân tộc mình. Muốn giải nghiệp, không có cách nào khác hơn là mọi người phải hướng thiện, cùng nhau làm việc thiện. Nói chung chung thế thì được nhưng nếu liên hệ cụ thể chắc rằng cũng sẽ không ít người phản đối.

Do đó, tốt hơn là tạm gác lại quá khứ và phản tỉnh cho ngày hôm nay. Trong Lạc Đường, Đào Hiếu có làm điều này. Anh đã phê phán, lên án cách hưởng thụ “thành quả cách mạng” của những người đã phản bội lại lý tưởng cách mạng. Đó là những người đã làm ngơ hay thỏa hiệp với những bất công áp bức, điều mà trước đây chính là động lực thúc đẩy họ tham gia chiến đấu, để chạy theo danh lợi một cách hèn nhát. Quan trọng hơn là việc tố cáo những độc đoán, sai lầm, hư hỏng và suy đồi của bộ máy độc tài toàn trị đã đưa dân tộc vào bi kịch mới. Nhưng có lẽ người đọc đều nhận thấy là anh chỉ dừng lại ở đó. Ngay trong bài viết mới “Những Lã Bất Vi…” anh cũng có chỗ dừng tương tự.

Có lẽ Đào Hiếu đọc Bùi Minh Quốc và tôi không nhiều nên anh có nhận xét chúng tôi phủ định quá khứ. Tuy Bùi Minh Quốc và tôi có nhiều điểm khác nhau nhưng cũng có những điểm chung và ở điều này, nhận xét của Đào Hiếu về chúng tôi không đúng. Chúng tôi không hề phủ định quá khứ (mà dù muốn phủ định cũng không được), ngược lại còn thấy, dù sao đi nữa, dù là vô tình, chúng tôi đã góp phần “đúc nên cỗ máy này”, theo cách nói của Bùi Minh Quốc. Chúng tôi tự thấy có trách nhiệm phải góp phần giải quyết những vấn nạn đối với đất nước do cỗ máy này tạo ra.

Việc Đào Hiếu so sánh Lã Bất Vi thời nhà Tần của Trung Quốc với những “tập đoàn buôn vua” thời hiện đại chính xác hay khập khiễng, hay chỉ là một sự liên tưởng, một cách ví von, điều đó không quan trọng. Anh đã nêu ra một nguy cơ có thật, một nguy cơ lớn lao cho đất nước. Nhưng giải quyết nguy cơ đó như thế nào anh chưa nói đến. Và đây lại là một đòi hỏi bức thiết của phản tỉnh.

Việt Nam hiện nay là một quốc gia nhược tiểu, chậm phát triển và dù muốn hay không, không thể thoát khỏi thời đại toàn cầu hóa này. Giữa bao nhiêu bẫy sập đang rình rập, làm thế nào sống sót để vươn lên là vấn đề sinh tử của một dân tộc.

Về phương diện cá nhân, mọi người có nhiều chọn lựa. Hoặc làm một kẻ lãng du trong cuộc đời này, không cần đến ý niệm quốc gia. Hoặc làm những việc từ thiện, tuy nhỏ nhoi, nhưng có thể cứu vớt được một đôi người. Hoặc chạy theo cuộc sống và hạnh phúc cá nhân, không đếm xỉa đến số phận dân tộc. Hoặc tham dự vào cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ… Nhưng đối với đất nước vấn đề không đơn giản, trong đó có hai việc trọng yếu phải giải quyết là nâng cao dân trí và xây dựng chính quyền. Dân trí có nâng cao mới có thể nhận thức được tình hình, quyền hạn và trách nhiệm trong làm chủ đất nước; xây dựng được một chính quyền có đủ trí tuệ, tài năng, bản lĩnh và đạo đức để đương đầu với những thách thức của thời đại và mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó không gì khác hơn là cuộc đấu tranh, vận động dân chủ hóa đất nước. Trong hoàn cảnh hiện nay, đây là cả một cuộc phấn đấu đầy gian nan.

Trong giai đoạn này, và có lẽ bất cứ lúc nào, mọi người cũng đều phải lựa chọn hay bị chọn lựa, tuy mức độ gay gắt khác nhau. Và sự lựa chọn “dấn thân” lúc này cũng không dễ dàng chút nào.

Đà Lạt 20-6-08

Nguồn: talawas 22.6.2008

 

 3.DƯƠNG PHẨM SUY NGHĨ VỀ “Những Lã Bất Vi thời đại mới”

Qua Lạc Đường và “Những Lã Bất Vi thời đại mới”, tác giả Đào Hiếu đã phần nào hé lộ ra tính cách chung của giới trí thức. Đó là sự cầu toàn và lý tưởng hoá những kiến thức họ thu nhận được qua sách vở mà hầu hết trí thức từ Tây sang Đông đều mắc phải.

Ở phương Tây, những trí thức có thể tạm gọi là trí thức “tháp ngà” đều có thiện cảm với chủ nghĩa cộng sản khi chủ nghĩa này nêu ra một xã hội công bằng, vô giai cấp, không có người bóc lột người; họ say mê chủ nghĩa này về mặt lý thuyết mà chẳng hề biết gì về mặt thực tiễn. Điều đó cũng dễ hiểu, vì họ có sống như công dân dưới chế độ cộng sản bao giờ đâu mà biết rõ cái gọi là bạo lực cách mạng của chuyên chính vô sản.

Đáng trách là trí thức miền Nam có một nửa nước nếm mùi cộng sản mà vẫn còn nhắm mắt đi theo cộng sản khi Lênin đề ra chiến lược nhuộm đỏ thế giới bằng chiêu bài giải phóng dân tộc.

Lẽ ra, trí thức phương Đông phải thuộc lòng câu minh triết này của Khổng Tử: “Tận tín thư bất như vô thư”. Không phải ngẫu nhiên mà Đào Hiếu bây giờ tỏ ra bi quan cực độ, nghi ngờ tất cả. Ông càng tin vào lý tưởng trước kia bao nhiêu thì nay thực tế phũ phàng càng làm ông cay đắng bấy nhiêu!

Để sống độc lập, không phụ thuộc ai giữa cõi trần tục nầy, có lẽ ông nên bắt chước Bá Di, Thúc Tề đi tìm một ngọn núi như Thú Dương mà hái rau ăn là yên chuyện. Chứ còn ở cõi “trần ai khoai củ” này, thánh thì ít mà quỷ thì hơi nhiều! May là người tử tế, chưa là thánh cũng không phải quỷ, còn nhiều hơn! Hy vọng ở chỗ đó, thưa ông.

Nguồn: talawas 19.6.2008

 

4.HÀ MINH  Có phải tất cả do… Lã Bất Vi?

Cuốn tự truyện Lạc Đường của ông Đào Hiếu là cuốn sách rất hẫp dẫn, tư liệu phong phú, được viết bởi một tấm lòng bộc trực, chân thật và do đó đọc rất lôi cuốn. Tôi đọc một mạch từ đầu đến cuối. Nhiều chi tiết rất ấn tượng, ví dụ ông tả “phi vụ” của biệt động Sài Gòn, (tác giả) dùng xe Honda chạy ngang bốt gác và hất trái mìn hẹn giờ vào phía chân bốt gác, tiếp tục chạy mà không tăng tốc độ, hồi hộp chờ nghe trái mìn… phát nổ v.v…, quả là những trang hồi ký rất thực và quý hiếm.

Một vài chi tiết cảm động khác như chuyện ông về thăm ngôi nhà mẹ ông, rồi đề cập đến những nhân vật cùng thời với ông và còn đang sống. Thái độ của ông rất thẳng thắn, sòng phẳng. Những điều ấy làm toàn bộ cuốn hồi ký có một giá trị chân thực cao, chiếm được niềm tin của độc giả ở thời buổi vàng thau lẫn lộn, khi nhiều người viết sẵn sàng đưa những chi tiết không thể kiểm chứng vào trong bài viết của mình để qua đó tự đề cao mình, hoặc vì một dụng ý nào khác.

Thấy ông có nhiều điều bức xúc, căm ghét Mỹ, một kẻ cựu thù của Việt Nam trong cuộc chiến tàn khốc và dai dẳng đã qua. Nỗi bức xúc của ông, thời gian không hàn gắn nổi, trong khi chính những người cộng sản lại chủ động bắt tay, nối lại quan hệ với kẻ cựu thù, lật trang mới của lịch sử. Vì sao như vậy? Ông hãy đọc những tài liệu mới cập nhật hơn về “ngôi làng” thế giới, về cái “thế giới phẳng” nơi mà các quy luật kinh tế toàn cầu đang chi phối. Cuộc “chiến tranh” mới trên thương trường đã bắt đầu từ lâu, nơi những cái đầu thông minh và tỉnh táo sẽ chiến thắng. Những kiến thức đã “lỗi thời” như kinh nghiệm “buôn vua” của Lã Bất Vi ngày xưa rõ ràng không phù hợp với bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày nay (Lã Bất Vi cuối cùng bị chính đứa con (gian lận) của mình là Tần Thuỷ Hoàng… treo cổ. Buôn vua để bị vua… treo cổ thì buôn làm gì? Chơi dao có ngày đứt tay).

Ông viết:

“… còn các trùm tư bản ngày nay lại dùng tài sản của các nước đang phát triển để MUA các nhà nước, các vị lãnh đạo, các bộ trưởng… Đổi lại, các chính phủ bản xứ cho họ ký hợp đồng khai thác tài nguyên, xây dựng các khu đô thị, các hệ thống đường sá, các khu công nghiệp, các nhà máy, các công trình công cộng… với giá thường là gấp 5 lần giá trị thực tế của chúng.”

Vấn đề là ở đâu? Bọn tư bản xấu bụng, đem tiền đi mua nhà nước, lãnh đạo, hay là nhà nước, lãnh đạo các nước đang phát triển bán mình cho “quỷ dữ”?

Đã là nhà buôn, người ta không từ các thủ đoạn để kiếm lợi, chừng nào luật pháp chưa ngăn cấm. Vì có những kẽ hở pháp luật nên tư bản nước ngoài mới có thể bóc lột tài nguyên nước mình. Nếu có sự giám sát của quốc hội, những đại biểu của dân có quyền lực thực sự, chuyện gian lận, mua quan bán tước, toa rập với tư bản ấy có thể bị ngăn chặn. Nếu cuộc chơi sòng phẳng đôi bên cùng có lợi, thằng Mỹ có xấu và tham đến đâu cũng chẳng làm gì được.

Hãy nhìn tấm gương đảo quốc Singapore, nó có chính quyền mạnh, ít tham nhũng, thằng tư bản làm gì được. Thằng Nhật Bản, đứng dậy từ đống tro tàn của chiến tranh (nó bị Mỹ “diệt” còn đau hơn ta), mà ngày hôm nay nó vẫn cảm ơn thằng Mỹ đã tạo điều kiện để nó xây dựng lại từ đổ nát. Đón nhận đầu tư nước ngoài không phải điều xấu, vấn đề là quản lý nguồn vốn đầu tư đó như thế nào, có tư lợi hay không, những “bóng ma PMU” vẫn còn lảng vảng đâu đây, và nó sắp hoá thân trở lại thành kiếp mới. Vậy đâu là nguyên nhân chủ đạo của những bất cập ông nêu trên?

Nguồn: talawas

 

 5.TÔN NGUYỄN, ý kiến về Lạc Đường

 Nhân đọc bài viết của ông Đào Hiếu, tôi có đôi điều nghĩ suy. Một là phải chăng ông đã trở nên một nhà trí thức nổi tiếng ngày hôm nay cũng vì ông sinh “nhầm chỗ”, tức là sinh ra và lớn lên ở miền Nam, dưới chế độ cầm quyền kém cỏi của những người mà ông chống đối như ông Diệm, ông Thiệu, ông Kỳ… Và nếu ông sinh ra “đúng chỗ” như ông muốn ở miền Bắc trước 75, hẳn ông sẽ hài lòng, không có chuyện bất mãn như phần lớn các trí thức thời đó dưới tài lãnh đạo sáng suốt của các nhân vật yêu nước như ông Hồ, ông Giáp, ông Duẩn…

Thứ hai, ông trách cứ các nước mạnh tìm đủ mọi cách để chèn ép nước yếu. Nếu Việt Nam giàu mạnh, chúng ta có tìm cách chèn ép các nước yếu khác không? Muốn tránh bị chèn ép, chỉ có nước làm nước mạnh, dân giàu. Cái chìa khoá giàu mạnh đó đang ở trong tay các nhà lãnh đạo “yêu nước” của chúng ta đấy.

Nguồn: talawas 18.6.2008

 

 6.HAI DƯƠNG, Đào Hiếu và Lạc Đường

Ông Đào Hiếu nhận xét rất đúng về những nhân vật lịch sử khi so sánh ông Hồ, ông Giáp với những ông Diệm, Thiệu, Kì, Minh… Ông nói cũng không sai rằng người có lòng trong giai đoạn ấy phải có sự lựa chọn.

Nhưng ông đã lựa chọn không phải bằng cái đầu của mình!

Vào thập niên 60, huyền thoại ông Hồ, ông Giáp đã sụp đổ với những người trí thức rồi, và đã là trí thức thì cũng phải biết chế độ dân chủ (mà miền Nam đang cố gắng xây dựng) không chỉ hoàn toàn lệ thuộc vào những người lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào nhóm chủ lực trong quốc dân dẫn đạo (cái tập thể trí thức trong đó có ông Hiếu).

Rốt cuộc, ông đã bỏ cái dài hạn để chọn cái ngắn hạn!

Khi đã vào tuổi này, ông nhìn ra cái cái xấu của cộng sản và tư bản, thì phải hiểu là ông đã có “cái đầu”, nhưng không phải “cái đầu” mà M. Djilas nói đến, cái đầu khiến người ta rời bỏ cộng sản, đồng thời biết rằng cần phải phủ nhận dĩ vãng “bé cái lầm” của mình. Ông Hiếu vẫn cho rằng sự lựa chọn của mình và các bạn là trong sáng, thích đáng, không cần “phản tỉnh”, khiến tôi phải nghĩ rằng dù cái đầu biết sai, nhưng ông lại không nỡ lòng chối bỏ quá khứ ấy (vì nó đẹp qua một lăng kính nào đó).

Thực ra, làm sao để biết ông Đào Hiếu, với văn tài làm say mê người đọc, khi nào là thật với lòng và khi nào là thật lòng với độc giả?  

Nguồn: talawas 18.6.2008

 

7.G.S HOÀNG NGỌC HIẾN: Giới cầm bút thế là có được một Đào Hiếu

Tôi vừa đọc xong Lạc đường, đọc một mạch. Lạc đường hấp dẫn vì Đào Hiếu quyết liệt và đi đến cùng, Đào Hiếu thực sự là một nhân vật tiểu thuyết.

Đọc đoạn đối đầu với Ba Hưng, đến chỗ “Ba Hưng điên lên: tôi ra lệnh”, tôi đoán thế nào anh cũng đấm và quả nhiên tiếp theo “ba cú đấm liên tiếp vào mặt anh ta”. Trong truyện của anh, rất nhiều người và nhóm người bị anh đấm thẳng vào mặt và hình như không có ai bị oan đâu.

Đào Hiếu có thể đúng, có thể sai, nhưng cuối cùng những sự thật trong nước và trên trường quốc tế cứ tóe loe ra đấy.

Tôi được biết thời Đức Quốc xã, đa số, nếu không phải là tuyệt đại đa số, trí thức Đức theo Hitler, nhưng tôi chưa thấy ai nói trí thức Đức là “hèn”. Có lẽ vì dù sao họ cũng có một Bertolt Brecht. Đánh giá giới trí thức, câu hỏi “những ai là người dũng cảm” quan trọng hơn rất nhiều câu hỏi “những ai là người hèn”.

Cầm trong tay cuốn Lạc Đường, tôi rất vui: Giới cầm bút thế là có được một Đào Hiếu.

Nguồn: talawas 2.11.2008

 

8.Thư của một nhà điêu khắc trẻ

 (ngày 18.11.2008)

…Con cũng vừa đọc xong Nổi Loạn của chú. Đọc văn chú, con có những cảm giác đắng ngắt và nghèn nghẹn. Và hơi hoang mang không biết đặt niềm tin vào đâu.

Có những điều gì đó thật khó lý giải. Con yêu cuộc đời này, cuộc sống này, nhưng cũng cảm thấy thật buồn bã vì những nghịch lí mà con không thể lý giải. Nên con đã từ lâu không còn quan tâm đến chính trị, không muốn hướng nhiệt huyết của mình vào những điều mình không rõ ràng. Những câu chữ trong truyện của chú cứ làm con đứng lại và bàng hoàng, rồi cảm giác bất lực. Con có gửi links cho một người bạn đang sống ở Mỹ về 2 đoạn trong cuốn Lạc Đường là chương 15 THẾ GIỚI ĐANG BỐC MÙI và 18 LỜI THÚ TỘI CỦA MỘT SÁT THỦ, bạn con đọc xong và khen hay, bảo sẽ dành thời gian để nghiên cứu trang web của chú.

Con thì phân vân, nửa muốn đọc tiếp Vua Mèo của chú, nửa cảm thấy sợ những cảm giác đau đớn khi bắt gặp những câu chữ chạm vào lòng sẽ xuất hiện trong khoảng thời gian này, lúc con đang cần nhiều sức lực  để xây lại không gian…Nên chắc con sẽ không dám đọc tiếp, đợi sau này làm xong, con sẽ dành thời gian đọc hết. Vì con là đứa rất đói sách và ham đọc.

 

9.NHỮNG PHẢN HỒI TỪ tác phẩm Mạt Lộ

 

TRẦN CAO THỌ 

Là một độc giả tình cờ đọc truyện của anh qua trang web Talawas.de, xin gửi tới anh lời chúc sức khỏe và mong anh sẽ cho ra mắt những tiểu thuyết sâu sắc như vậy.

Tuy nhiên cũng xin góp ý với anh là trong một số chi tiết, lời đối thoại còn chưa phù hợp với tâm lý và lứa tuổi của nhân vật. Có vẻ như hơi có phần cụt lủn. Nhất là các nhân vật trẻ trong câu chuyện này.

 

From: “MICHAELLANG” 

(michaellang8@gmail.com)

Trần Cao Thọ chê đối thoại trong Mạt Lộ là cụt lủn! Tôi lại thấy sướng điên vì cái kiểu ‘cụt lủn’ ấy đấy!

 

MỘT ĐỘC GIẢ Ở HOA KỲ

(Thu, 30 Oct 2008 16:39:37)

Đọc tác phẩm “Mạt Lộ” của ông trên mạng Talawas, tôi xin gửi đến ông một sự kính phục. Lời văn ngắn, vung lên và chém nhanh, như những vết dao, càng đọc càng rỉ máu.

Tôi không đọc sách thư viện vì sách đọc “free” là giết nhà văn. Tôi ở Mỹ.

 

Mr TRẦN TRUNG

(Date: Dec 25, 2008 6:42 AM)

Tôi không thuộc lớp người mà lời nói có đủ sức nặng để làm nhiều người khác phải chú ý. Vậy nên không biết nói gì hơn ngoài mấy lời thể hiện sự cảm phục đặc biệt khi đọc những dòng anh viết ra. Tôi đã đọc không ít sách báo mang tính phản kháng hoặc chỉ ra những sự thật đau lòng. Nhưng chỉ có đọc anh, tôi mới có cảm giác đã có người nói hộ đúng những suy nghĩ của mình.

Mong sao có hàng chục triệu người đọc và hiểu anh. Khi đó, cho dù chưa thể làm gì để thay đổi xã hội, nhưng chỉ riêng việc hiểu đúng cũng đã quý lắm rồi!

Chúc anh an toàn và mạnh khoẻ để tiếp tục cho nổ tung những quả bộc lôi, làm sụp đổ những bức tường của sự giả dối!

 

NGUYỄN TRẦN SÂM

Sat, 3 Jan 2009 04:39:03 -0800

Vì làm nghề dạy học, tôi có điều kiện đọc cho hàng trăm đồng nghiệp và học trò nghe các tiểu luận, truyện ngắn và những trích đoạn trong các truyện dài của anh. 

Tôi sống ngoài bắc và rất hiếm khi vào Saigon. Nhưng nếu có dịp, nhất định tôi sẽ tìm gặp anh.

 

BRIAN VU

brianhvu@gmail.com

…Thật là lạ lùng khi người ta có thể cảm mến một người chưa hề gặp mặt, xa cả nửa vòng trái đất vì những gì hắn viết. Tôi tin anh, một người, qua ngôn ngữ của mình, có khả năng chuyên chở những rung động vi tế, mong manh như tơ sen hay thâm trầm rồi cuồng uy như sóng thần từ biển sâu tới tim gan người đọc. Có thể bây giờ có nhiều nhà văn Việt trong và ngoài nước có khả năng viết không kém anh, nhưng tôi thấy anh có một vị thế đặc biệt vì một số lý do theo chỗ nhận xét tức thời: tiểu sử “đặc công nội thành” của anh, cá tánh cương trực, khả năng viết ra được tâm tư của đại chúng qua rung cảm và nhận thức của chính mình và làm rung động họ. Hơn nữa là anh viết từ trong nước. Chừng đó lý do thôi cũng đủ làm cho những người đang nắm giữ bạo quyền run sợ trong thâm tâm, sinh lòng thù ghét và mang tai họa đến cho anh.

…Anh Hiếu, tôi thấy cuộc sống của anh lúc này quan trọng cho mọi người Việt, bởi vì anh đang “nói” giùm cho họ vào lịch sử.

Những gì đang anh viết và làm đã nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng cho mọi người Việt khác vào một tương lai chuyển biến của đất nước. Thì cũng mong những liên lạc của tôi tới anh sẽ nuôi dưỡng được niềm vui và hứng khởi cuả anh. Để anh biết rằng: có chúng tôi đây đang nghe anh tâm tình qua từng bài viết. Tôi biết anh có đó và anh biết chúng tôi đang có đây. Dĩ nhiên những kẻ rình rập cũng biết chúng ta đang có mặt và có nhau nhiều hơn, nhưng những con dơi đêm chưa bao giờ ngăn được ánh sáng của bình minh.

 

MỘT ĐỘC GIẢ Ở CANADA

Date: Fri, 31 Oct 2008 01:28:11 -0600

Tôi đã đọc một mạch tiểu thuyết “Về Đâu?” (Mạt Lộ) trong 6 tiếng đồng hồ (trên mạng Talawas). Đọc xong tôi viết lá thư này đến ông, với một lời chân thành biết ơn Nhà Văn đã vẽ ra toàn cảnh của một xã hội Việt Nam tha hóa đến cùng tận! Ông đã làm đúng với thiên chức của một Nhà Văn đúng nghĩa, là: Không sợ sức mạnh của bạo quyền đương thời.

Tôi đã bật khóc khi cậu thanh niên Sen nói: Sẽ sống suốt đời bên cô Trúc ớ cái cù lao tăm tối.

Rất tiếc, một tác phẩm Cực Hay; một viên Ngọc cực đẹp; và nhân bản, thiết tha với cuộc sống biết mấy; mà không in được thành sách trong nước, là một hoang phí vô cùng to tát cho nền văn học đương đại của VN.

Mến và kính chúc ông luôn sức khỏe để viết những Bản Hùng Ca mà nhiều nhà văn trong nước (ăn lương nhà nước) đã không dám làm!

 

10.NHÃ NAM Đọc và xem “MẠT LỘ”

 

Cầm cuốn tiểu thuyết mới nhất của Đào Hiếu trong tay, cảm giác đầu tiên là thích thú. Thích thú từ cái đơn giản và mạnh mẽ của bìa sách. Dĩ nhiên, không thể so sánh bìa cuốn tiểu thuyết được in một cách “thủ công” này với bìa hàng vạn cuốn sách đang bày bán khắp nơi được in ấn “hiện đại” đầy hào nhoáng.

Lật vào những trang trong… Ông nhà văn này quả là kỹ lưỡng, dù ghi “in vài ba cuốn tặng bạn bè”, ông vẫn chỉn chu thực hiện tất cả những quy ước quốc tế cho một ấn phẩm đàng hoàng: có “copyright ©“ bằng tiếng Anh, có trang bìa lót, có trang giới thiệu ngắn… Đặc biệt trang cuối sách ghi rõ: “Xuất bản theo Điều 60 và 69 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992”. Như vậy, cuốn tiểu thuyết đã được thực hiện một cách trang trọng, đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà văn, một nhà (tự) xuất bản. Gần như không có lỗi ấn loát nào, dù là một dấu chấm phẩy. Muốn biết thêm, độc giả còn có thể ghé thăm website:  http://daohieu.com được in cuối trang 2, để thấy rõ ràng website Lề Bên Trái của Đào Hiếu cũng được chăm chút chu đáo thế nào.

Sở dĩ tôi cứ lan man ngoài bìa cuốn tiểu thuyết mà chưa vào phần nội dung vì tôi tin rằng, một cuốn sách có giá trị thật sự không chỉ do nội dung mà còn phương cách nó được thực hiện. Nếu người viết không tôn trọng tác phẩm của mình thì sao có thể thuyết phục độc giả tôn trọng? Tôi yêu mến Đào Hiếu vì sự chu đáo này và ngưỡng mộ ông vì đàng hoàng xuất bản, đàng hoàng công bố tác phẩm của mình, giữa thời buổi cái gì cũng phải xin phép này. Ông đã tự xuất bản đứa con tinh thần này theo tinh thần tôn trọng quyền con người và cũng là cách khẳng định rằng quyền tự xuất bản vốn có ghi trong Hiến pháp nước sở tại mà lâu nay người dân và ngay cả chính ông “quên mất”.

Chỉ khoảng 200 trang sách, tiểu thuyết Mạt Lộ của Đào Hiếu đã vẽ ra bức tranh vân cẩu của xã hội đầy nhem nhuốc hiện tại, xen giữa là vài hồi ức ngắn ngủi thời chiến tranh khốc liệt của những nhân vật trong truyện. Có thể hiểu, nhân vật xưng “tôi” trong truyện không can dự gì nhiều, chỉ đứng ở vị thế một người quan sát và ghi chép tỉnh táo là chính tác giả – một người trong cuộc – về cuộc chiến đầy tranh cãi cách đây gần 40 năm và cay đắng chứng kiến những ghê tởm bây giờ. Những dòng chữ trìu mến xót xa của tác giả dành cho Đại úy Quỳnh, bạn ông, người một thời phía bên kia chiến tuyến. Còn những đồng đội, đồng ngũ đã “chiến thắng” của ông chỉ được vẽ ra như những người lạc đường hoặc lỡ đi vào mạt lộ. Những đồng đội một thời ấy, họ bị lừa dối và đẩy vào cuộc chiến tương tàn mà không hiểu vì sao.  Đến khi đã thâu tóm quyền lực nhờ chiến thắng, kẻ vốn dối trá cơ hội thì ngoi lên, đạp đổ mọi chuẩn mực, kẻ ngây thơ cũng bị cuốn vào guồng máy bất nhân không dứt ra được.

Từ một Trần Vũ, nhà văn, trung úy VNCH lỡ đi vào bưng rồi phải tự sát vì bị nghi kỵ, từ Thu, một cán bộ nội thành bị lộ, vào bưng, cam tâm để  cấp trên lợi dụng tình dục, từ một Mười Đạt bị đọa đày nơi Côn Đảo, từ một Ba Trần, thứ trưởng trong chính phủ Cách mạng Miền Nam sau thành siêu địa chủ… đều đi theo mạt lộ. Đằng sau họ là một thế lực, một bóng ma đầy quyền lực của bóng tối, kẻ có tên Vương gia – một biểu tượng sinh động của giới cầm quyền. Chân dung ghê rợn của Vương gia được Đào Hiếu mô tả:

“Ông không lộ diện nhưng có mặt khắp nơi, nhắc tới tên ông thì mọi người đều run sợ. Nhắc tới tên ông, những người lớn tuổi phải nhắm mắt, xua đuổi những hình ảnh man rợ trong các vụ đấu tố, tra tấn, chôn sống người trong thời cải cách ruộng đất, những trí thức thì cúi mặt, cụp đuôi như con chó bị thiến, bị cắt tai, thảy ra giữa đám gia nô mặt trắng, xỉa xói, lăng mạ, cướp sổ gạo, bỏ đói, bắt đi cày, bắt đi làm chỉ điểm, đi bán danh dự, bán ngòi bút, bán cả bạn bè để kiếm một bát cơm nguội của thời Nhân văn Giai phẩm.

Nhắc tới ông, những người lính già ôm mặt khóc cho đồng đội của mình đã bị đem thí quân trong trận Mậu Thân, trong chiến dịch càn quét sang Campuchia khốc liệt. Một tướng về hưu kể rằng số sĩ quan cấp tướng, cấp tá cấp úy…đã chết trong chiến dịch này bằng cả cuộc chiến tranh chống Mỹ gộp lại. Tất cả đều xuất phát từ cơn điên của ông ta. Ông ta đã quyết định hai chiến dịch lớn ấy vì muốn “tài năng hơn ông Giáp, nổi tiếng hơn ông Hồ” và sai lầm nghiêm trọng trong chiến lược đã hủy diệt hàng triệu sinh mạng, phá nát hàng trăm ngàn gia đình, gieo rắc đau thương đến từng làng quê, từng góc phố.

Theo tin đồn thì ông thuộc dòng dõi hoàng tộc triều Nguyễn, một trong những đứa cháu của vua Đồng Khánh. Nhưng về sau này, khi đất nước thống nhất, trong tư dinh của ông lại treo ảnh vua Hàm Nghi, em ruột Đồng Khánh, vì Hàm Nghi chống Pháp còn Đồng Khánh thì thân Pháp.

Chính vì chuyện đồn đại ấy mà khi còn ở trong rừng mọi người đều gọi ông là “vương gia” (hết trích).

Nhân vật Vương gia là đầu mối cho thảm họa của dân tộc, kẻ ấy lại run sợ khi bị một bé gái lột mặt nạ. Chân tướng thảm hại của kẻ cầm quyền tất sẽ bị Chân, Thiện, Mỹ lật mặt.

Đào Hiếu không quên thế hệ trẻ, trong Mạt Lộ, nhân vật xưng tôi của ông dành nhiều tình cảm cho đám con cháu của những người ông quen biết, như Huy, Trúc, Quỳnh Vi… chỉ ngọai trừ giám đốc Minh, đứa con rơi của Vương gia với nữ bác sĩ riêng.

Từ một thanh niên trí thức, đẹp đẽ, Minh đã biến thành tỉ phú sa đọa, một kẻ đánh mất niềm tin vào thế hệ đàn anh vì chứng kiến: “Ba đi làm cách mạng, đấu tố địa chủ, hạ nhục họ, bức tử họ, để rồi khi cách mạng thành công, ba và các đồng chí của ba truất quyền sỡ hữu đất đai của nhân dân, một mình vơ vét ruộng đất, trở thành những địa chủ khổng lồ. Giàu có vô lượng, chiếm hữu đất đai nhiều vô số” và “Ba quên rằng con là con của vương gia sao? Ông ta là một con người lạnh lùng cho nên giám đốc Minh này vô cảm, giám đốc Minh này thiếu tình người là chuyện có gì khó hiểu đâu. Khó hiểu là những người cộng sản. Họ rêu rao rằng họ đang thực hiện công bằng xã hội, giải phóng giai cấp, thế mà họ tàn ác, tham lam và lạnh lùng như những con người vô tính. Công ty của con là một công ty tư nhân nhưng con không thể lấy đất của dân nếu không có sự chỉ đạo, sự ủng hộ, sự đồng tình, sự chia chác… của nhà nước. Con chỉ là một cái bánh xe trong guồng máy mà thôi.”

Lời của tỉ phú Minh đã đúc kết toàn bộ những phi lý, những ghê tởm của xã hội hiện hữu. Mạt Lộ còn như một thiên phóng sự, cho ta thấy những cảnh hiện thực hôm nay: lớp người quyền thế ăn chơi sa đọa, lớp thanh niên chạy theo hưởng thụ, bọn cơ hội nước ngoài nhảy vào xâu xé, lũ côn đồ đầu trâu mặt ngựa bức hiếp dân lành…

Nghiệp chướng. Bắt đầu từ ngày cô Thu trẻ đẹp đi vào bưng và cuối sách là  bà giám đốc Sở Thương nghiệp tên Thu ấy phát điên khùng rồ dại, chồng con chết thảm thương. Phải chăng là quả báo, là nghiệp chướng như Phật dạy? Đào Hiếu để cho độc giả tự hiểu, và cái kết cục của nhân vật Thu, nhân vật Minh, Mười Đạt cũng có thể là cái kết của Vương gia.

Đọc Mạt Lộ của Đào Hiếu để khâm phục một người từng ở trong guồng máy như ông, nay đã thoát khỏi vũng nhơ nhớp. Ông là một chứng nhân. Tiểu thuyết Mạt Lộ của ông là một lời chứng không khó để kiểm nghiệm. Hãy nhìn sâu, nhìn kỹ để thấy như ông.

Nguồn: BBCVietnamese.com 26.03.2009

 

11.NGUYỄN TRẦN SÂM: VÌ SAO NHIỀU NGƯỜI ĐỌC “Lạc Đường”?

 

Mặc dù tác phẩm LẠC ĐƯỜNG có vẻ được Đào Hiếu đầu tư thời gian ít hơn so với một vài tiểu thuyết khác, nhưng nhiều người vẫn cho rằng LĐ có vị trí nổi bật nhất trong các tác phẩm của ĐH.

Vì sao?

 1. LĐ đề cập đến những vấn đề cốt tử của cuộc sống xã hội trong thời đại ngày nay.

ĐH đã nêu ra và trả lời những câu hỏi về thực trạng cuộc sống xã hội VN và thế giới – sự suy đồi đạo đức, sự xuống cấp của các giá trị tinh thần, sự liên kết của các thế lực chính trị và tài phiệt để cướp bóc dân các nước nhược tiểu, sự phản bội các tôn chỉ của cuộc đấu tranh giành độc lập… Điều này ai đọc cũng thấy, thiết tưởng không cần bàn nhiều.

 

2. Sự chín muồi của nhận thức xã hội

Mặc dù thời gian viết LĐ chỉ có hơn một năm, nhưng những vấn đề xã hội đề cập trong đó đã nung nấu ĐH nhiều năm, nhất là từ 1975, khi ông bắt đầu thấy thất vọng ghê gớm về cái guồng máy của ‘xã hội mới’ và những con người trong đó – những kẻ có quyền hành nhưng ti tiện và ngu dốt. Chính quá trình nung nấu lâu dài đó đã thôi thúc ĐH viết LĐ, và khi ông đặt bút viết thì hầu hết những câu hỏi đã được trả lời xác đáng. Sự chín muồi trong nhận thức của ĐH cũng là hệ quả của việc ông đã bị ‘bầm dập qua nhiều chế độ’.

3. Bản chất con người Đào Hiếu

Nói về con người ĐH, có thể dùng những từ ngữ: bộc trực, sắc sảo, say đắm (đến mức sống chết vì cái đẹp, đầy tình yêu thương.)

Tính bộc trực giúp ĐH dám sống (như GS Hoàng Ngọc Hiến nói) như một nhân vật tiểu thuyết thực sự. Không phải cố tình đóng vai một nhân vật tiểu thuyết, mà tính tiểu thuyết là hoàn toàn tự phát, do khát vọng được sống một cuộc đời đẹp về mặt tâm hồn. Tính cách đó giúp ĐH có những hành động đáng phục, và những hành động đó cũng là những sự kiện mà khi viết lại sẽ lôi cuốn người đọc. Tính bộc trực cũng thể hiện qua hơi văn: ngang tàng, phóng túng và quyết liệt. Những người đồng quan điểm nhưng chưa nói ra được, khi đọc những dòng như vậy thấy ‘đã đời’:

 “Đứng hàng đầu trong danh sách tham nhũng là những ‘tên tuổi lớn’ như: Tổng thống Mobutu của Cộng hoà Dân chủ Congo, biển thủ 80 tỷ đô la; cựu Tổng thống Suharto của Indonesia, tài sản gần bằng một nửa tổng sản phẩm quốc nội của Indonesia; cựu Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines biển thủ 100 tỷ đô la, và cựu Tổng thống Alberto Fujimori của Peru, biển thủ hàng trăm triệu đô. Hãy nghĩ mà xem, những tên đầu trộm đuôi cướp như vậy mà vẫn được ghi tên vào lịch sử như những nhà lãnh đạo quốc gia thì rõ ràng bọn sử gia là bọn bồi bút hạng bét. Nhưng ngươi có biết ‘những nhà lãnh đạo’ ấy đã lấy tiền bằng cách nào không?”

“Trên khắp thế giới, bọn cầm quyền đều có chung một ngón nghề làm giàu như nhau. Đó là ăn chặn tiền đầu tư của nước ngoài, tiền ‘lại quả’ từ việc mua bán tài nguyên quốc gia, như dầu mỏ, hải sản, lâm sản… tiền rút ruột các công trình như kiểu mà phe nhóm của Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến trong vụ PMU18, hoặc Vũ Đình Thuần, Lương Cao Sơn trong vụ Đề án 112 và các đồng bọn của chúng đang làm ở Việt Nam. Sau đó, để trả nợ cho nước ngoài, chúng thường lấy tài nguyên quốc gia, lấy tiền thuế của nhân dân ra mà trả. Trả không hết thì các thế hệ con cháu của chúng ta phải trả!” (Chương 14)

Và đây, những dòng viết về một kẻ đã từng được hàng trăm triệu người tung hô, nhưng là một tên sát nhân đáng ghê tởm nhất trong lịch sử loài người:

“Giờ đây, Mao Trạch Đông vẫn còn đang nằm trong lăng tại Quảng trường Thiên An Môn nhưng nhân dân Trung Quốc muốn lôi hắn ra và ỉa vào cái xác thối ấy.

Một tỷ ba trăm triệu nạn nhân của Mao sẽ làm cái động tác phóng uế ấy. Lúc đó Trung Quốc sẽ có một cái lăng vĩ đại được xây bằng… vàng (!). Lăng mộ đó còn “hoành tráng” hơn cả lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng, độc đáo hơn cả thập tam lăng của Triều Minh.

Nhưng sẽ không có du khách nào dám đến thăm. Vì nó rất thối.” (Chương 29)

Sự sắc sảo giúp ĐH phát hiện ra bản chất những vấn đề xã hội, nhìn ra tim đen của bọn người đê hèn cấu kết với nhau để hút máu và rút tuỷ của quần chúng nhân dân.

Sự say đắm cái đẹp làm cho ĐH dễ dàng tìm ra những nét đẹp trong cuộc sống xô bồ với đầy những trò nhố nhăng, và làm cho chính ông có một cuộc đời đẹp, dù gian truân và không ít đau thương nhưng thực sự đẹp. Tính cách đó cũng làm cho những trang viết của ĐH mang đậm vẻ đẹp, một vẻ đẹp cuốn hút của lối viết cô đọng: chỉ hơn hai trăm trang mà chứa chất không biết bao nhiêu là sự kiện!

Tình yêu thương là đặc điểm lớn nhất ở con người ĐH. Chính vì thế mà những dòng ông viết về mẹ, về cha, về con gái và về những số phận không may mắn khác làm bất kỳ ai đọc cũng phải xúc động mạnh. Làm người, ai có thể thờ ơ khi đọc những dòng này:

“Tôi theo con đường cát tìm lối vào một căn nhà lụp xụp. Căn nhà trống trơn. Bếp nguội lạnh. Chiếc võng gai rách mắc giữa nhà và trên cái bàn gỗ ở góc tường vẫn còn một ít sách vở và cái đèn dầu nám khói. Giờ này chưa đến giờ học nhưng vợ tôi đi đâu?

Mấy đứa bé thập thò bên cửa sổ:

“Cô đi nằm nhà thương ở Phan Thiết rồi.”

Một ca cấp cứu vì đau ruột thừa trước đó hai ngày. Thế con tôi đâu? Không ai biết. Một ai đó đã đem về nuôi giúp hay nó đã đi lạc?

Lũ trẻ không có câu trả lời.

Tôi chạy đi tìm con giữa những mê lộ đầy cát nóng. Biển chói chang mặt trời mùa Hạ. Trong thứ ánh sáng xốn xang ấy, một đứa bé gái trần truồng, đen đủi, từ gió cát hiện ra. Nó đi lẫm đẫm, xiêu đổ, nhạt nhoà trong nắng lóa. Nó ngơ ngác, hốt hoảng, tìm kiếm vô vọng.

Đó là con tôi.

Tôi chạy ra sân ôm nó vào lòng. Nó bấu lấy tôi. Không khóc, không kêu một tiếng. Nhưng tôi thì khóc, vì tôi vẫn còn nước mắt. Còn con tôi, trong mấy ngày qua, có lẽ đã khóc hết nước mắt rồi. Nó cứ bấu lấy tôi. Im lặng.

Khi tôi đặt nó xuống giường, nó giương mắt nhìn tôi. Một đứa bé 20 tháng tuổi, ngơ ngác không biết tại sao mẹ mình biến mất. Nó trần truồng như một con chó con đơn độc đi tìm mẹ, lẩn quẩn ngoài vòng rào của ngôi trường nhỏ. Rồi lại trở về nhà. Rồi lại lẫm đẫm đi…

“Để ba đi mua bánh cho con.”

Tôi chạy ra khỏi nhà, quệt nước mắt bằng ống tay áo. Khi tôi đem ổ bánh mì về thì đứa bé đã ngủ. Nó ngủ ngồi, gục mặt lên cái giỏ xách.” (Chương 10)

Tôi cứ bị ám ảnh mãi bởi những câu “Nó đi lẫm đẫm, xiêu đổ, nhạt nhoà trong nắng loá.”, “Nó bấu lấy tôi… Nó cứ bấu lấy tôi. Im lặng.” (Cái từ ‘bấu’ này, chỉ có nó mới diễn tả được một cách cô đọng nhất trạng thái của đứa bé lúc đó.) Và mỗi lần hình dung ra cảnh ĐH ôm đứa con gái 20 tháng tuổi, tôi lại muốn trào nước mắt.

 4. Yếu tố Thiền

Những tác phẩm trước LĐ cũng đã cho thấy ĐH là tài năng lớn. Nhưng LĐ mặc dù được viết ra trong khoảng thời gian tương đối ngắn mà vẫn có sự hấp dẫn đặc biệt là vì có yếu tố Thiền trong đó. Đó là kết quả của một quá trình hoạt động tinh thần lâu dài và mạnh mẽ, và đến một giai đoạn nào đó thì sự tĩnh lặng sẽ tới cùng với sự thông tuệ. Đó cũng là hệ quả của cả việc đọc kinh sách, luyện Tứ Niệm Xứ, học thiền… Không thành ‘chính quả’, nhưng cũng khai mở được đường dẫn tới những yếu tố thiêng liêng. Tôi dám nói thế, và bảo đảm rằng nhiều đoạn trong LĐ được ĐH viết ra gần như không phải nghĩ ngợi và sửa đi sửa lại. Đó là cảm giác tôi có khi đọc những đoạn như dưới đây.

Đoạn về tuyết:

 “Tuyết đưa mặt đất vào huyền thoại. Đàn dê núi chập chờn trên vách đá. Bông tuyết mù mịt. Ngọn gió trắng hư ảo, phiêu hốt qua thung lũng, Đàn dê núi đến bên chân người. Có thể thọc bàn tay lạnh cóng vào lông ngực chúng để sưởi. Chúng quỳ xuống thành bầy và trẻ thơ ngủ giữa những dãy vú căng sữa nóng hổi. Những con thỏ rừng cũng không sợ người. Chúng đào hang dưới gốc thông để ngủ đông. Có thể vuốt ve những mảng lông mịn lẫn trong cỏ khô.

Trời liền với đất. Người liền với vật. Hơi ấm liền với giá rét. Mọi vật đều vô ngôn, lặng thinh. Sự sống giấu bên dưới sự tịch mịch, sự nồng nàn giấu bên dưới băng giá.” (Chương 19)

Và đoạn viết về nét đẹp cổ kính thơ mộng của Bruxelles:

 “Mười năm đã qua rồi nhưng tiếng leng keng của chiếc xe điện cổ kính vẫn thủ thỉ trong tôi, thân ái như tâm tình của một người bạn. Tiếng chuông ấy ngộ nghĩnh và hồn nhiên, lan toả trong buổi sáng lạnh lẽo. Chiếc xe điện chạy qua, rải những tiếng leng keng ấy dọc theo lối cỏ ướt, rải tiếng reo mừng của bình minh trong nắng mới tinh khiết và xao động. Và rải tâm hồn tôi trên lưng những ngọn gió mềm mại mà giá lạnh.” (Chương 12)

Một dấu hiệu của yếu tố Thiền là sự phóng túng đặc biệt trong lời văn. Khóc, cười, chửi bới, lảm nhảm,… cứ như không phải do một ý định nào, mà do một dòng chảy vô hình đến từ một nơi nào đó – đó là Thiền. Và những giây phút lãng quên, quên hết chuyện đời, quên cả cái bản ngã hẹp hòi để tan biến vào hư vô, để hoà nhập với TẤT CẢ – đó là Thiền.

 “Tôi sung sướng vì đã quên hết mọi thứ. Quên cả tiếng người, quên cả mình đang ở đâu, đang làm gì, sẽ làm gì. Hốt nhiên mà nhập vào cảnh giới ngộ thiền. Tâm đang về trú với thân. Tâm đang nằm trong lòng bàn tay, trong vỏ hạt dẻ. Và thấy mình là đám mây thấp trên đồi nương.

Tiếng trò chuyện chung quanh chỉ như những xao động, tiếng ngỗng kêu trong suốt, rơi vào tâm hồn đang rỗng không của tôi.” (Chương 13)

 “Tôi đang hoà nhập với sóng. Đang đánh mất mình trong vô định. Đang rỗng không. Chỉ có tôi một mình với sóng. Sóng che lấp núi non, những tàn cây và những ngôi nhà trong phố. Sóng che lấp bầu trời. Che lấp cuộc đời. Sóng che lấp bản ngã tôi. Dường như tôi đã chết. Nhẹ như một chiếc lá. Tan biến như một gợn sóng.” (Chương 25)

Chính yếu tố Thiền đã làm cho LẠC ĐƯỜNG, mặc dù khép lại với “Một đời không bến bờ” nhưng không gây cảm giác tuyệt vọng.

Ai muốn nhìn rõ hiện thực, đồng thời muốn thỉnh thoảng tách khỏi hiện thực để có những khoảnh khắc thăng hoa – hãy đọc LẠC ĐƯỜNG!

Nguồn: damau.org

 

12.ĐÀO HIẾU trả lời phỏng vấn website “Da Màu” và “Việt Báo“

 

(Bài phỏng vấn này đã đăng trên tờ Việt Báo tại Hoa Kỳ số ra ngày 13.12.2008 và trên website DAMAU.ORG ngày 19.12.2008)

 

ĐẶNG PHÚ PHONG: Ông viết hăng thật, mới Lạc Đường đó nay lại Mạt Lộ. Từ 2 tác phẩm này tôi xin dùng nó để đặt câu hỏi với ông: Lạc Đường rồi sẽ Mạt Lộ?

ĐÀO HIẾU: Sau khi lạc đường người ta thường dừng lại, hỏi. Nếu hỏi, sẽ có nhiều người trả lời. Nhất là khi chúng ta đang dừng lại ở một ngã ba, ngã sáu hay ngã bảy. Người trả lời sẽ thuộc nhiều thành phần khác nhau nên sẽ có câu chỉ đường khác nhau. Đáng sợ nhất là gặp những người chỉ đường lưu manh.

Đ.P.P: Ông muốn ám chỉ ai?

Đ.H: Đó là những người không chỉ cho mình đường đến đích của mình mà lại chỉ đến đích của họ. Ví dụ như công ty PCI của Nhật Bản. Họ đã chỉ đường cho ViệtNam vay vốn ODA và bỏ vào túi của họ. Còn đường đến Đại lộ Đông Tây, đến Hầm ngầm Thủ Thiêm thì xa lắm.

Đ.P.P: Nhưng ông vẫn chưa trả lời câu hỏi: “lạc đường rồi sẽ mạt lộ?”

Đ.H: Tác phẩm Mạt Lộ chỉ có tham vọng mô tả những số phận của thế hệ “sau Lạc Đường”.

-Đó là một lớp người thực dụng, tham lam, lạnh lùng trong một xã hội tan rã, bẩn thỉu, mục nát (ví dụ như nhân vật Vương gia, giám đốc Thu, nhân vật Akinari, nhân vật Minh…).

-Đó là một lớp trẻ muốn lột xác, đổi đời nhưng lại bị cái guồng máy ma quỷ dẫn dụ, vùi dập không thương tiếc (ví dụ như nhân vật Trúc, Sen).

-Đó là một lớp trẻ có hoài bão về một tương lại tươi đẹp nhưng lại bị cái bóng đen của cuộc chiến tranh vừa qua đánh phủ đầu gục chết trong bóng tối (ví dụ như nhân vật Huy, con trai của lão vương gia.).

-Đó còn là số phận của đám dân đen bị quyền lực và tham vọng nghiền nát (như Lão Già, như Quỳnh…).

Đ.P.P: Thế còn nhân vật Quỳnh Vi?

Đ.H: Có thể đó là một niềm hy vọng. Nhưng tôi cũng không ngây thơ, dễ dàng tin tưởng ở một lớp trẻ như vậy. Bởi vì trong thời đại toàn cầu hóa này, nếu ở Việt Nam có được một lực lượng đông đảo những người trẻ Tây học như vậy, thì họ phải có thực quyền mới mong xoay chuyển được tình thế. Nhưng ngày nay quyền lực đều nằm trong tay của giới tài phiệt quốc tế và Đảng cộng sản.

Đ.P.P: Vậy nếu cái mà anh gọi là “lớp trẻ Tây học” lên lãnh đạo quốc gia thì sao? Tình hình sẽ khá hơn không?

Đ.H: Chắc sẽ khá hơn, với điều kiện họ thoát ra khỏi sự khống chế của Đảng cộng sản hoặc chính họ đổi mới Đảng cộng sản, nhưng vẫn còn một sự khống chế khác cũng rất ghê gớm; đó là các tập đoàn tài phiệt thế giới. Tuy nhiên, tôi nghĩ hoàn cảnh đó cũng đỡ khổ cho dân nghèo hơn, tự do sẽ được nới lỏng hơn. Sẽ có được một chút nhân quyền, một chút dân chủ tối thiểu để có thể gọi là một công dân, một con người. Có lẽ chúng ta không nên cầu toàn. Vừa nghèo vừa dốt như ViệtNam sao có thể đòi hỏi nhiều quá được.

Đ.P.P: Văn ông viết lôi cuốn, hấp dẫn lắm, đôi khi lên gân và cường điệu nữa. Những tác phẩm của Đào Hiếu hầu như để gói ghém tâm sự, nhân sinh quan, chính trị quan của mình. Như vậy liệu nó có làm tính độc lập, tính khách quan của tác phẩm giảm bớt đi không?

Đ.H: Tác phẩm “Mạt Lộ” là một tiểu thuyết. Trong đó có vài đoạn mà ông gọi là “cường điệu” thực ra là dụng ý của tác giả. Ví dụ như khi tả về sự sa đọa của nhân vật Akinari tôi đã đẩy sự cường điệu lên tới mức “ma quái”. Có người còn nói: “đọc đoạn tả về Akinari thấy muốn ói”. Đó là vì tôi muốn trưng bày hình ảnh ghê tởm của một “ông chủ Nhật Bản” mà tôi từng biết. Còn đoạn viết về Trúc chuẩn bị đám cưới thì tôi viết thơ mộng như cổ tích, đoạn viết về chiến tranh thì tàn khốc như địa ngục, còn đoạn nào cần lên án, đả kích, triệt hạ… thì tôi cũng không ngại dùng dao găm, cứt đái, chổi cùn… Tôi nghĩ đó chỉ là vấn đề bút pháp. Tôi cho rằng trong cùng một tác phẩm cũng cần có nhiều bút pháp khác nhau để thể hiện nhiều nhân vật, nhiều tình huống khác nhau.

Đ.P.P: Theo tôi ”Mạt Lộ“ là một tự truyện được tiểu thuyết hóa một phần để tác giả dễ đưa ra những hiện thực đầy bi kịch, những tàn ác của một xã hội chất chứa toàn là mâu thuẫn, sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau. Nhân vật “Tôi”  trong ”Mạt Lộ“ với thái độ bình tĩnh đến mức gần như thản nhiên của một triết gia đón nhận tất cả những sự việc đau đớn đến với mình, với người thân của mình.

Đ.H: Ồ không. Mạt Lộ không phải là một tự truyện. Nó không phải là chuyện của đời tôi. Nó là mảnh đời của một nhân vật có tên là ViệtNam. Tôi nhặt những mảnh đời ấy, mài dũa cho sắc sảo, cho lộ rõ cái bản chất lấp lánh của chúng, rồi ghép lại thành một bức tranh với những matière khá sần sùi như kiểu sơn dầu. Có lửa khói, có đất đá, máu và nuớc mắt. Đó là một bức tranh không chỉ có đường nét và màu sắc. Nó còn có cả tiếng la hét và lời nguyền rủa.

Nó không chỉ là bức tranh 3D mà là 4D. Cái Dimension thứ tư là âm thanh. Cho nên nó không chỉ dàn trải trong không gian mà còn dàn trải trong thời gian. Có thể nó sẽ còn ngân lên, còn vang vọng lúc chúng ta đã gấp cuốn sách lại và cố ngủ.

Đ.P.P: Chương ông viết về nhà văn Trần Vũ và sự tự sát của ông ta là một bi hùng kịch. Có phải ông dùng Trần Vũ như một bản án cho những kẻ trí thức lạc đường tự xử?

Đ.H: Thời đánh Mỹ, những ai từng ở R đều biết trường hợp của một nhà văn, gốc là sĩ quan chế độ cũ, tốt nghiệp trường võ bị quốc gia Đà Lạt, vô rừng theo Việt cộng rồi bị nghi ngờ, theo dõi và cô lập, cuối cùng dẫn đến tự sát. Cái chết của anh là thái độ phản kháng quyết liệt đối với cái guồng máy mà anh hằng tin tưởng và tôn sùng. Đó là sự phản kháng mang tính nhân bản, tính triết lý. Đó không phải là “tự xử”. Cái chết của anh đã gây cảm thương và xúc động sâu sắc vì nó biểu hiện một nhân cách lớn.

Tôi xây dựng nhân vật Trần Vũ (không phải tên thật) là để tưởng niệm anh, một đồng nghiệp của tôi.

Cùng cảnh ngộ với anh còn có nhiều người, nhưng sự phản kháng của họ khá đa dạng tùy theo mức độ “ê chề” của từng người. Có kẻ bỏ rừng về “chiêu hồi” như Tám Hà, như kỹ sư Hồ Văn Bửu…(đọc hồi ký Lữ Phương) có kẻ sau năm 75 vừa ở trong rừng ra đã “chịu đời không thấu”, phài vượt biên sang định cư ở một nước khác như nhà văn Lưu Kiểng Xuân (bạn thân của tôi) đã sang Úc, nhiều người khác thì dùng ngòi bút của mình để đấu tranh cho một xã hội công bằng hơn (và họ đã từng bị tù đày, bị quản thúc…) như Lữ Phương, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự…

Đ.P.P: Có bao nhiêu sự thực trong nhân vật Vương Gia?

Đ.H: Nhân vật “vương gia” là biểu tượng cho cái “bóng đen quyền lực” đang bao trùm lên đất nước. Nó có thể là một người, hai, ba người, mà cũng có thể là một tập thể. Nó quyết định số phận đất nước và cả số phận của từng con người. Nó quyết định chiến thắng mà cũng quyết định cả những thảm bại, những bi kịch lớn. Nó là một nhân vật biểu tượng nhưng nó thật hơn cả những nhân vật có tên gọi cụ thể trong tác phẩm.

Đ.P.P: Sau khi cuốn Lạc Đường ra mắt ở hải ngoại, dư luận ủng hộ và chống đối đều có cả. Những người chống  thì cho rằng “Đào Hiếu chỉ đòi đảng Cộng Sản ViệtNam sám hối, còn Đào Hiếu thì không. Đào Hiếu vẫn cho rằng quảng đời đi theo Việt Cộng cho tới tháng Tư-75 vẫn là con đường đúng. Và, Đào Hiếu vẫn tôn sùng thần tượng Hồ Chí Minh.” Ông nghĩ sao về những lập luận này?

Đ.H: Tôi nghĩ bây giờ không phải lúc để chúng ta “giành phần phải” về mình. Đây là lúc những người trí thức Việt Nam cần đoàn kết vì một nước Việt Nam dân chủ, vì đại đa số dân nghèo Việt Nam đang sống trong bất công, nghèo khó và mất tự do.

Tôi, Lữ Phương, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự… sám hối hay không sám hối để làm gì? Chúng tôi có là “cái thá” gì trong cuộc chiến tranh vừa qua đâu mà sám hối với không sám hối? Chúng tôi chỉ là những hạt cát, những con tép riu. Chúng tôi có khác gì những con tốt vô danh. Các anh cứ làm như chúng tôi là những tướng lãnh!

Đúng, sai là chuyện của Đảng, không phải chuyện của chúng tôi. Hồi ấy chúng tôi không biết cộng sản là gì, chúng tôi cũng cóc cần biết. Họ cũng cóc cần chúng tôi. Chúng tôi nhập cuộc vì chúng tôi yêu nước và…“chịu chơi”.

Hồi đó chịu chơi kiểu hồi đó, bây giờ chịu chơi kiểu bây giờ.

Hiện nay ở ViệtNamcó mấy người “chịu chơi” như chúng tôi? Vậy các anh phải ủng hộ chúng tôi chứ. Sao các anh cứ muốn đẩy chúng tôi vào chân tường, muốn dồn chúng tôi vào giữa hai lằn đạn?

Chúng tôi chấp nhận nguy hiểm để – bằng ngòi bút của mình – đấu tranh cho tự do, cho dân nghèo mà có người còn lên án chúng tôi thì họ là ai? Tôi ngờ rằng những người lên án ấy đã nhận tiền của nhà cầm quyền ViệtNamđể cô lập những người yêu nước. Không loại trừ khả năng họ là công an văn hóa đội lốt Việt kiều Mỹ.

Nhưng cho dù họ ai, chúng tôi cũng không quan tâm. Vì chúng tôi viết bằng lương tâm trong sạch, vì dân nghèo. Không vì một thế lực chính trị nào cả. Nếu chúng tôi làm tay sai cho một thế lực nào đó để viết thì cũng chỉ là bồi bút mà thôi.

Còn về Hồ Chí Minh. Sách báo và trên các website đã nói quá nhiều, từng đường tơ kẽ tóc. Tôi cũng giống như anh, đã đọc không sót một chữ. Chúng ta đều đủ chín chắn, đủ bản lãnh và trí tuệ để đánh giá về ông ấy, thiết nghĩ không cần phải đặt vấn đề tôn sùng hay không tôn sùng nữa.

Đ.P.P: Ông nhắc đến Tiêu Dao Bảo Cự làm tôi nhớ đến bài của ông ta viết về ông trong đó có 2 đoạn như thế này:

“….Thực ra tôi không cố ý trách Đào Hiếu không phản tỉnh, mà chỉ ghi nhận thái độ không phản tỉnh về quá khứ của anh khi đọc hết tác phẩm…”

Và: “…..Chúng tôi (tức Tiêu Dao Bảo Cự và Bùi Minh Quốc) không hề phủ định quá khứ (mà dù muốn phủ định cũng không được), ngược lại còn thấy, dù sao đi nữa, dù là vô tình, chúng tôi đã góp phần “đúc nên cỗ máy này”, theo cách nói của Bùi Minh Quốc. Chúng tôi đã góp phần giải quyết những vấn nạn đối với đất nước do cỗ máy này tạo ra…). Ông nghĩ sao vể những nhận định này?

Đ.H: Như ở câu trên tôi đã trả lời: “sám hối hay không sám hối để làm gì? Chúng tôi có là “cái thá” gì trong cuộc chiến tranh vừa qua đâu. Chúng tôi chỉ là những hạt cát, những con tép riu.”

Việc các anh Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc cho rằng mình “đã góp phần đúc nên cỗ máy này” và do đó phải có trách nhiệm “giải quyết những vấn nạn đối với đất nước do cỗ máy này tạo ra”… tôi cho rằng các anh ấy hơi lạc quan vì thực tế xưa nay Đảng có coi trí thức, văn nghệ sĩ ra cái gì đâu, nếu không nói là họ ghét bỏ, dè chừng, họ đã chẳng từng đày đọa nhóm Nhân văn Giải phẩm như súc vật đấy sao?

Hãy xem Lữ Phương viết về thân phận trí thức trong hồi ký của mình như sau: ”Ông Phùng Văn Cung là một bác sĩ hiền lành, ít nói. Đã vào Đảng và được giao cho đủ thứ chức vụ này nọ nhưng chẳng khác gì chúng tôi, ông biết tất cả đều chỉ là “kiểng” thôi: trong bụng dường như có nhiều điều uẩn khúc lắm nhưng cố gắng giữ gìn để làm tròn nhiệm vụ một đảng viên cần phải biết “an tâm công tác”. Căn lều của ông gần lều của tôi: chiều chiều, lúc vừa nhá nhem, từ bên đây nhìn sang chỗ ông, chúng tôi thấy ông hay ngồi một mình, kéo ống quần lên dụ cho muỗi bu vào rồi dùng hai tay đập cho chết, xong rồi xếp chúng thành một hàng dài và nhìn ngắm rất lâu! Có lẽ đó cũng là một thú tiêu khiển chăng? Một lát sẽ vào mùng nghe đài, nhưng bây giờ biết làm gì?” (Hồi ký Lữ Phương- chương 10)

Tôi chỉ trích một đoạn ngắn cho vui, vì thực ra ai cũng biết là những trí thức lừng lẫy cỡ như Trần Đức Thảo còn bị coi như một thằng “lon ton” đi viết ba cái khẩu hiệu vớ vẩn, huống chi là cỡ như chúng tôi. Vậy thì nói chi tới chuyện “đúc nên cỗ máy” này nọ, gây hiểu lầm, rách việc!

Đ.P.PHONG thực hiện

 

13.Chung quanh tác phẩm “NỔI LOẠN“

 

Cuộc phóng vấn do tác giả Đoàn Giao Thủy, Báo “Diễn Đàn Paris” thực hiện và đăng trên số 28 phát hành tháng 3/1994 tại Pháp.

 

Trong sáu tháng cuối năm 1993, cuốn tiểu thuyết NỔI LOẠN của Ðào Hiếu đã nổi lên như một sự kiện văn học ở TP Hồ Chí Minh.

Trong chừng mực nào đó: có thể gọi “vụ án NỔI LOẠN”, bởi vì đã có lời buộc tội đăng trên báo chí, cuốn sách đã bị tịch thâu và tác giả đã bị bắt giam và truy tố. So với các vụ án văn nghệ trước kia, đây chỉ là một vụ án nhỏ, song nhìn chung không có gì thay đổi về phương pháp của nhà cầm quyền dùng để triệt hạ một tác phẩm: tác phẩm bị kết án, tác giả bị đi tù, song tác giả không được quyền giải thích công khai về tác phẩm của mình. Chỉ có một điều là ở cuối thể kỷ thứ hai mươi này việc bỏ tù một nhà văn vì tác phẩm của họ không còn dễ dàng như xưa nữa!

Trong lần về thăm Việt Nam vừa qua tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Ðào Hiếu cũng như nhiều người có thẩm quyền trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn về cuốn sách và các sự kiện chung quanh nó. Khi đó khả năng anh bị bắt giam đã được nêu ra. Trở lại Âu châu được tin anh bị bắt thật, tôi tự thấy có trách nhiệm giới thiệu những lời trao đổi với anh mà tôi ghi được. Như một chứng từ! Như quyền trả lời của một người bị buộc tội. Phải nói ngay rằng đây không phải là một phân tích về nội dung cuốn sách: xin dành phần đó cho bạn đọc hay các nhà chuyên phê bình văn học. Trước khi đi vào phần trao đổi, có lẽ cần nói đôi điều về tác giả cũng như bối cảnh của vụ án.

 

I/ TÁC GIẢ:

Ðào Hiếu sinh năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Ðịnh, tốt nghiệp Ðại Học Văn khoa Sài Gòn năm 1972. Trước 1975 tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, viết văn với bút hiệu Biên Hồ, cộng tác với Bách Khoa, Ðiện Tín, Tin Văn. Hiện nay là biên tập viên nhà xuất bản Trẻ, hội viên Hội nhà văn Việt Nam. NỔI LOẠN là cuốn sách thứ 14 của anh từ sau 1975. Tiểu sử Ðào Hiếu được ghi trong tuyển tập TIẾNG HÁT NHỮNG NGƯỜI ÐI TỚI.

 

II/ TRAO ÐỔI VỚI NHÀ VĂN:

Ðoàn Giao Thủy (ÐGT): Trong hoàn cảnh nào anh đã thai nghén cuốn NỔI LOẠN?

Ðào Hiếu (ÐH): Trước nay tôi thuộc loại tác giả có sách bán ế nhất nước, có lẽ do tôi đã chọn những đề tài khô khan (Giữa Cơn Lốc, Người Tình Cũ, viết về phong trào sinh viên), hoặc vì tôi thích xây dựng nhân vật khác thường (Vua Mèo, Hoa Dại Lang Thang, Kẻ Tử Ðạo Cuối Cùng), hoặc xây dựng những truyện tình khác đời (Vượt Biển, Trong Vòng Tay Người Khác, Nổi Loạn), do đó truyện của tôi không gần gũi với độc giả bình thường nên sách bán chậm. Bây giờ thì người ta đổ xô nhau đi tìm…

NỔI LOẠN viết về một bi kịch của tình yêu và hôn nhân, một đề tài cũ. Cái mới nằm trong sự phát triển tính cách nhân vật trong bối cảnh lịch sử nơi xảy ra bi kịch này. Không có cuộc hôn nhân nào quái đản như cuộc hôn nhân mà nhân vật Ngọc trải qua. Ngọc đã bị bưng bít, cấm đoán và đàn áp. Thế là Ngọc nổi loạn: trong tình yêu, hôn nhân, trong gia đình và tình dục. Tại sao không? Hai mươi năm bị bưng bít thì nổi loạn trong tình dục là một phát triển tất yếu khi Ngọc có được một mối tình. Vài ba đoạn ngắn rải rác tả về quan hệ nam nữ là những đoạn tôi viết mượt mà và thơ mộng nhất. Tôi rất thích những đoạn này bởi vì chúng đầy ngẫu hứng, trong đó phải tinh tế mới thấy được tính nhân đạo của một sự hiến dâng trọn vẹn trong tình yêu.

ÐGT: Bới thế anh đã bị kết án là bôi lọ miền Bắc, xuyên tạc sự thật…

ÐH: Sự nghèo nàn lạc hậu và sự bưng bít của xã hội miền Bắc trong những năm 60-70 là một thực tế. Nhiều bạn bè miền Bắc đều cho rằng tôi đã viết rất thật. Xin nhấn mạnh: những người biên tập và duyệt in NỔI LOẠN là những nhà văn có tiếng ở miền Bắc.

ÐGT: Nhiều người cho rằng NỔI LOẠN là một “tác phẩm dịch vụ” chủ yếu để kiếm thêm chút tiền cho nhà xuất bản. Hình như tác giả không những bỏ tiền in mà còn phải trả tiền cho nhà xuất bản?

ÐH: Ai am hiểu về thị trường sách văn học ở ViệtNam đều biết rằng in tiểu thuyết trong lúc này là vì yêu thích văn học chứ không phải để kiếm lời. Rất nhiều nhà văn in sách để tặng bạn bè. Tôi vẫn coi văn học là một sản phẩm cao cấp. Sách của tôi đều bán rất chậm vì tôi không viết theo thị hiếu và phần lớn đều in ở những nhà xuất bản lớn có uy tín như Nhà xuất bản Hội nhà văn, nhà xuất bản Văn học, nhà xuất bản Văn nghệ…

ÐGT: Trong NỔI LOẠN các nhân vật đều bế tắc ở đường đời, song nhân vật “thiện” là một sĩ quan cải tạo còn các nhân vật “ác” là các cán bộ đảng viên. Anh có ý thức đó là một sự khiêu khích với nhà cầm quyền?

ÐH: Thông thường nhà văn lấy một mẫu nào đó trong đời để tạo ra nhân vật. Nhân vật này hay nhân vật kia chẳng qua cũng bắt nguồn từ những cái mẫu ngoài đời mà thôi. Tôi không có ý khiêu khích ai cả.

ÐGT: Dường như Hội nhà văn, bạn bè anh và giới văn nghệ không có phản ứng nào trước chiến dịch phê bình NỔI LOẠN?

ÐH: Bạn bè tôi thì nhiều; người yếu bóng vía thì hỏi tôi có ăn ngủ được không, bao giờ thì đi tù; họ xúi tôi trốn. Có người cho rằng tôi sẽ bị treo bút, bị khai trừ ra khỏi Hội nhà văn. Một số bạn bè miền Bắc thì không hiểu báo chí TPHCM làm dữ như vậy với mục đích gì, có ai đứng đằng sau muốn triệt hạ nhà xuất bản Hội Nhà Văn chăng? Còn tôi, tôi đóng vai khán giả. Tôi ngồi hàng ghế dưới, hút thuốc lá và thỉnh thoảng vỗ tay!

ÐGT: Cách đây mấy năm ông Nguyễn Văn Linh kêu gọi văn nghệ sĩ hãy “tự cứu mình…”. Song có lẽ ai cũng vẫn còn sợ, thấy cô đơn và chỉ biết chờ đợi. Liệu anh có thể tiếp tục viết lách khi bị kỷ luật hay đi tù?

ÐH: Khi ông Linh kêu gọi văn nghệ sĩ “hãy tự cứu mình” hay “đừng uốn cong ngòi bút” thì đó là cách nói hoa mỹ để bảo văn nghệ sĩ hãy tuyên truyền tốt hơn cho chính sách đổi mới của Đảng… Trường hợp các báo Văn Nghệ, Sông Hương, Cửa Việt… thì chẳng qua các anh em ấy tưởng lầm là ông Linh nói thật, thế thôi. Tôi chưa hề viết một bài chống tiêu cực nào vì đó là trò trẻ con. Thật ngây ngô khi nghĩ rằng mình không uốn cong ngòi bút khi viết loại văn chương chống tiêu cực, văn chương đổi mới. Thời đó tôi đã cho ra đời những nhân vật mang nhiều tính cách viễn mơ, chế giễu và quay mặt với cuộc sống quanh mình (Vua Mèo) hoặc cuồng tín một cách dễ thương, chết ngu ngốc và thánh thiện (Kẻ Tử Ðạo Cuối Cùng), hay số phận đìu hiu của một trí thức đi theo cách mạng (Người Tình Cũ, Hoa Dại Lang Thang). Tiếc thay, dạo đó người ta đổ xô tìm đọc văn chương chống tiêu cực, văn chương đổi mới. Ðó là sự giải tỏa ẩn ức. Quần chúng luôn là đám đông tội nghiệp; họ nhẹ dạ và bị lừa liên tục. Nhà văn phải nói cho đám đông biết điều đó. Ðương nhiên là dù trong hoàn cảnh nào tôi cũng phải viết. Tôi ghét chính trị và nghi ngờ cuộc sống nên các nhân vật của tôi cũng vậy.

ÐGT: Gần đây nhiều tác giả đã gửi các tác phẩm của mình ra nước ngoài để in vì không có nhà xuất bản trong nước nào nhận in. Anh có nghĩ rằng đây là điều cần làm?

ÐH: Ðó là một lối thoát cho những tác phẩm có giá trị. Luật xuất bản vừa được ban hành có quá nhiều điều cấm kỵ cho người cầm bút.

ÐGT: Có người cho rằng xã hội Việt Nam như một trại khổng lồ của những người bị bệnh tâm thần, luôn phải sống với sự nhân đôi nhân cách. Có cơ sở gì để hy vọng rằng xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chỗ bình thường hơn, sống thật hơn với suy nghĩ và tình cảm của con người?

ÐH: Sống giả là hậu quả tất nhiên của một xã hội không có tự do tư tưởng. Con người sẽ sống thật hơn khi được tự do tư tưởng và khi nhiều mặc cảm tự ti được xóa bỏ. Nghĩ cho cùng, những người lên án NỔI LOẠN, ngoài động cơ chính trị và cơ hội, còn bị sự chi phối âm thầm của một mặc cảm nào đó về tình dục. Một người yếu về tình dục cũng như một nhà nước yếu về dân chủ và nhân quyền, thường chột dạ khi người khác nói về các điều này. Cần phải bồi dưỡng cho họ, dạy cho họ tập thể dục để họ mạnh mẽ, bớt mặc cảm, bớt chột dạ. Xã hội sẽ tự do hơn, dễ chịu hơn, thật hơn.

ÐGT: Anh đã tham gia nhiều năm trong phong trào sinh viên Sài Gòn. Hơn hai mươi năm sau, bạn bè anh đang sống như thế nào?

ÐH: Năm 1988 tôi viết cuốn Người Tình Cũ. Nhân vật chính là một trí thức tham gia các phong trào cách mạng tại đô thị miềnNam trước đây. Ðó là một cuộc dấn thân lãng mạn, thi vị và đầy huyền thoại. Cuối cùng anh trở thành một người dân chài. Suốt đời anh đi tìm một lý tưởng và anh đã gặp sự cô độc ở chặng cuối cùng. Dĩ nhiên là có nhiều người trong Phong trào Sinh Viên trước đây, hiện nay làm quan lớn. Ða số đều ăn cắp của công và đã tự đánh mất mình.

ÐGT: Nhiều người cho rằng Việt Nam đang thay đổi. Anh cảm nhận sự thay đổi này như thế nào?

ÐH: Sự đổi mới hiện nay ở ViệtNam là một sự đổi mới về kinh tế chứ không phải chính trị, tư tưởng. Nếu có “thoáng” hơn trong xuất bản và báo chí (so với thời kỳ bao cấp) thì cũng chỉ thoáng về cách kinh doanh (báo chí có quảng cáo, có chống tiêu cực, xuất bản có cho tư nhân bỏ vốn…) chứ hoàn toàn không thoáng trong tư tưởng. Tóm lại vẫn phải viết một chiều và trong phạm vi Đảng cho phép.

ÐGT: Thường trong những biến động lịch sử của một dân tộc hay trong giai đoạn xây dựng hòa bình, tầng lớp trí thức đóng một vai trò quan trọng. Gần đây, anh Phan Ðình Diệu có viết rằng “ở Việt Nam hiện nay chưa có một giai cấp trí thức”. Là một nhà văn, anh nghĩ sao?

ÐH: Tôi nghĩ nhận định này hoàn toàn đúng. Tôi muốn thêm rằng, văn nghệ sĩ – trí thức ViệtNam đa số là hèn. Song song với sự “trung dũng kiên cường trong chiến đấu” thì sự hèn hạ và khiếp nhược cũng được rèn luyện trong quá trình tham gia cách mạng. Phần lớn trí thức được thuần hóa. Miếng cơm manh áo và sự an phận đã thắng tất cả. Nó vô hiệu hóa trí thức và biến trí thức thành những người tầm thường. Ðó là điều tệ hại hơn cả.

ÐGT: Chúc anh được nhiều sức khỏe và nghị lực để chống chọi với bão táp đang tới.

Sài Gòn 9.1993 – Belgique12.1993        

ÐOÀN GIAO THỦY  

 

14.Đào Hiếu và một ngôi trường

 

(Trích đoạn)

…Khi đọc báo thấy loan tin về một cuốn sách như thế với một cái tên rất quen thuộc: “Ðào Hiếu”, hốt nhiên tôi đã nghĩ đến hai điều:

1. Cuốn sách phải do một tác giả ở miền Nam viết, bởi vì chỉ có người miền Nam đã từng sống tại đó mới có khả năng xây dựng nổi nhân vật “sĩ quan cải tạo đáng yêu” (chữ của Vũ Hạnh) đó! Người miền Bắc không thể làm được việc này, nếu làm thì sẽ sai, dù có ít nhiều thiện chí đi nữa!

2. Cái tên “Ðào Hiếu”, làm tôi nhớ đến một người bạn vừa cùng học ÐHSP Sài Gòn, vừa cùng ở chung tại ÐH xá Minh Mạng, và đồng sở thích, vì cả 2 đều có viết lách lai rai, yêu văn nghệ!

Tôi nghi ngờ Ðào Hiếu tác giả “Nổi Loạn”, chính là hắn, bởi vì biết chắc tác giả phải thuộc người bên này vĩ tuyến như đã nói ở trên, tiếp đến: cái tên không khác mấy, chỉ thiếu chữ lót! Thứ ba: hắn đã từng làm nghề viết lách trước đây, ký bút hiệu: “Biên Hồ” với truyện dài đăng nhiều kỳ “Ðốt Lửa Trong Ðêm” đăng trên tờ Bách Khoa của ông Võ Phiến ngày xưa.

Cuối cùng hắn là một thành viên trong nhóm SV khuynh tả tại ngôi trường khét tiếng nhờ 2 đặc tính: thi vào rất khó, và theo bên kia khá nhiều – ÐHSP Sài Gòn! Nên trong thâm tâm tôi vẫn muốn nhờ bạn bè còn bên ViệtNam“check” lại những điều tôi cần biết. Thế nhưng, bất ngờ ngày hôm qua nhìn thấy tấm hình ông “bạn vàng” ngày  xưa, trích in từ bìa sau của cuốn sách đăng trên tờ TVTS do đó tôi nảy ý viết bài này, ghi vài kỷ niệm cũ về tác giả để bạn đọc dễ hiểu tác phẩm hơn. Tấm hình có hơi khác ngày cách đây hơn 25 năm, nhưng những nét chính vẫn là Hiếu của thuở nào.

Mặc dù học chung trường nhưng lúc đó Hiếu mới đậu vào năm thứ nhất ban Pháp văn, như vậy Hiếu phải là dân trường Tây mới đậu nổi vào option này.

Hồi đó tại hai trường ÐH văn khoa và ÐH sư phạm SG đám sinh viên trẻ khuynh tả rất nhiều, đại khái như các năm trên tôi có Huỳnh Hữu Nhật (sau này là thứ trưởng GD của MTGPMN) hắn ta học ban vật lý có lần nắm chức Ðại diện sinh viên ÐH sư phạm. Rồi Trần Triệu Luật (ban Việt Hán) vào bưng bị B-52 chết. Rồi Cao Lợi (ban sử địa)…

Hiếu hồi đó ốm nhách, người Bình Ðịnh, hay mặc áo quân sự học đường như mọi sinh viên khác vì thiếu đồ ngủ! Hiếu trông hiền lành, xanh gầy kiểu như Hàn Mặc Tử, hắn gặp tôi là xuýt xoa gọi tôi là thi sĩ với vẻ chân thành đến độ làm tôi phì cười: “Thôi bỏ đi cha! ra ngã sáu kiếm cà phê tán dóc”.

Hiếu và Khiêm gặp tôi thường chỉ nói chuyện văn chương (cả ba đều là dân Trung kỳ và có máu văn nghệ, cũng dễ có máu CS lắm, nếu chưa biết nó) chứ không bao giờ nói chuyện chính trị. Chẳng khi nào họ dụ tôi hoạt động bên kia có lẽ vì biết tôi không thích, tôi xuất thân là con địa chủ và từ QÐ trở về học lại chăng? Tôi chẳng đả động gì về việc họ làm khi mình không có bằng chứng. Văn nghệ: đó là lý do chúng tôi thân nhau.

Sau đó tôi không gặp Hiếu nữa và dường như  Hiếu bỏ học giữa chừng, có lẽ anh chàng đi hoạt động cho phía bên kia như Trần Minh Ðức. Khiêm thì tốt nghiệp và đi dạy đàng hoàng dù sau đó bị đuổi!

Giờ thì Hiếu sắp gặp cơn đại nạn rồi, trước sau gì cũng bị đi tù. Một người như Hiếu (hay Khiêm, kể cả Trịnh Công Sơn nữa, những kẻ chỉ biết yêu con người và yêu văn nghệ thì chỉ bị CS lợi dụng khả năng của mình mà thôi chứ khó hội nhập vào CS lắm).

Bởi đó tôi không lạ gì khi nghe Hiếu viết cuốn Nổi Loạn. Dù sao như vậy bạn cũng đã làm được một việc đúng lương tâm của người cầm bút, một người làm văn nghệ chân chính, nghĩa là người:  “không chịu nói yêu thành ghét và nói ghét thành yêu.”

Hy vọng một ngày nào đó tôi, bạn và Khiêm sẽ gặp nhau trong câu chuyện đời chẳng ai ngờ được, khi mỗi người đã chọn cho mình một hướng đi, mà hướng đi nào rồi cũng sẽ trở về La Mã. La Mã ở đây chính là CON NGƯỜI.

NGUYỄN TƯ (TV tuần san-USA)

 

15.Ngọn lửa nhỏ giữa cuộc đời mênh mông

 

1. Đã hơn mười năm trôi qua, khi mà những ầm ĩ xung quanh vụ  “Nổi Loạn” của Đào Hiếu lắng xuống, thậm chí gần như rơi vào quên lãng thì tôi thấy ông vẫn ngồi cà phê vỉa hè, nhấm nháp những khoảng im lặng cô đơn như ngày trước.  Đào Hiếu vẫn tự nhận mình là kẻ lang thang trong cuộc đời và chỉ viết những gì mình thích. Ông rất kị cái gọi là “sứ mệnh” hay là “món nợ, trăn trở”… gì gì đó mà người ta hay gán cho nhà văn.

Năm 1993, khi Đào Hiếu vừa cho ra mắt cuốn “Nổi Loạn” (NXB Hội Nhà văn) thì lập tức bị “đánh” tới tấp. Và cách đơn giản nhất để triệt hạ một tác phẩm là chụp cho nó cái mũ “đồi trụy” hoặc “phản động”.

Thời gian cho mỗi người những  trải nghiệm. Nhưng, thời gian đôi khi không cứu vãn những nỗi buồn. Đào Hiếu kể: “Nhờ vụ này mà mình phân biệt được trong đám bạn ai là người tốt, ai là kẻ muốn đánh người ngã ngựa, dây máu ăn phần. Nói thật, cuốn “Nổi Loạn” mình viết chơi, như một kiểu tiêu khiển, nhưng lại bị làm ầm ĩ.  Trong khi những cuốn mình rất tâm huyết, dốc nhiều công sức thì không được ai nhắc tới…”

Cuốn tiểu thuyết tâm huyết mà Đào Hiếu nhắc đến đầu tiên là cuốn Vua Mèo (NXB Trẻ, 1989). Đây là cuốn tiểu thuyết có cái tứ khá độc đáo với những nhân vật lạ lùng như cô Lọ Lem và người đàn ông lang thang có biệt danh Vua Mèo. Mỗi người một phận đời, một cuộc hành trình. Nhưng cả hai đều dự vào cái tiến trình dần đi đến cái siêu nhiên bản thể.  Đọc Vua Mèo là gặp những trang văn đẹp, những đối thoại ngẫu hứng, dí dỏm, và tiếp cận một lớp ẩn ngữ thông tuệ, loé sáng xuất thần của nhà văn Đào Hiếu. Đọc cuốn tiểu thuyết này, “những kẻ tử đạo” rất thích, nhưng giới phê bình  thì lặng thinh.

Những cuốn ông có thể nói say sưa về nó, ngoài Vua Mèo, còn có “Hoa Dại Lang Thang” (tiểu thuyết – NXB Văn học 1990), Người Tình Cũ” (tiểu thuyết – NXB Văn nghệ 1988), “Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng” (tiểu thuyết – NXB Trẻ 1989), “Những Bông Hồng Muộn” (tạp văn – NXB Trẻ 1999).

2. Quê ở Tây Sơn – Bình Định, tốt nghiệp cử nhân văn chương Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1972, Đào Hiếu cũng từng là một gương mặt nổi bật trong phong trào sinh viên Sài Gòn đấu tranh chống Mỹ. Trước năm 1975, Đào Hiếu từng làm công tác vũ trang tuyên truyền nội thành Sàigòn, từng có truyện ngắn, tiểu thuyết… đăng trên các báo: Bách Khoa, Tin Văn, Điện Tín v.v… Nhưng có thể nói Đào Hiếu là lớp nhà văn trưởng thành sau 30-4-1975. Đào Hiếu viết khoẻ, liên tục cho ra đời các tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Với vốn văn hoá phong phú, cộng cái nhìn từng trải, Đào Hiếu thể hiện một lối văn tưởng chừng như đầy ngẫu hứng nhưng lại hàm nghĩa sâu sắc. Đào Hiếu cũng không thuộc týp nhà văn tỏ ra mình là quan trọng. Nhưng những điều ông đề cập trong tác phẩm không hề xuất phát từ những ý tưởng xoàng xĩnh, hay những bức xúc vụn vặt. Đào Hiếu cũng từng đưa ra những nhận định khá sâu sắc về văn chương. Ông bảo: “Nếu thế giới là không gian ba chiều thì văn học là chiều thứ tư của ngôn ngữ”. Ở cái “chiều thứ tư” này không phải ai cũng dễ dàng thích bày biện cuộc chơi. Đào Hiếu tự biết: “Viết văn là đùa với ngôn ngữ nhưng lại không đùa. Giống như Lệnh Hồ Xung đánh kiếm vậy. Vô chiêu mà thắng hữu chiêu, muốn thu thì thu, muốn phát thì phát. Ảo diệu vô lượng”.

Đã hơn mười năm, từ sau vụ “tai nạn” văn chương ấy, dường như có thời gian Đào Hiếu “mất hứng”. Nhưng ông chưa từ bỏ cuộc chơi. Đào Hiếu vẫn viết trong im lặng. Ông ngại công bố. Mà người ta cũng ngại công bố tác phẩm của ông. Dù rằng, sau cái vụ “tại nạn” năm xưa ông vẫn không hề gì, vẫn là biên tập viên văn học của NXB Trẻ, vẫn là hội viên Hội Nhà văn VN, vẫn đi nhiều nơi trên thế giới. Nhưng, người ta vẫn ngại nhắc đến Đào Hiếu. Những cuốn sách ông in ra, dù chất lượng đáng đọc, dù “nội dung tư tưởng” không đụng chạm, thì người ta vẫn ngại giới thiệu (kể cả một tờ báo lớn mà ông từng là một trong những người sáng lập!)

Không sao, Đào Hiếu vẫn viết. Ông bảo, cuốn sách cuối đời của ông sẽ là một cuốn hồi ký. “Dù mình chẳng có gì quan trọng. Nhưng vì đã bầm dập qua nhiều chế độ, qua các thời khắc lịch sử đáng nhớ nên cũng có chuyện để viết.”

Với thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp văn v.v… Đào Hiếu vẫn chưa “cày” xong thửa ruộng của đời ông. Ông vẫn đang gieo hạt và chờ cây trái sinh sôi. Sự sinh sôi cũng đồng nghĩa với ban tặng và xoa dịu. Còn nói theo Goethe thì: “Duy nhất cái gì sinh sôi là thật”. Như vậy thì nhà văn sống thật, viết thật lại phải thua thiệt, đắng cay ư?

Trong số tác phẩm của Đào Hiếu, tôi thích nhất những bài tạp văn của ông. Đọc tạp văn Đào Hiếu cảm nhận một chiều sâu văn hoá và nét tinh tế của tâm hồn. Khi đọc lại “Những Bông Hồng Muộn” tôi thấy Đào Hiếu viết mấy câu thơ thay lời tựa rất thú vị:

 

Những chiếc lá đâm chồi không ai hay

Già cỗi giữa thinh không

Và chết trong những ngọn gió.

*

Tác phẩm của tôi như những chiếc lá rụng

Rơi vào bụi hồng

Những chiếc lá rụng không ai nhặt

Tự gom lại giữa vòng xoáy

Có người bật lên que diêm

Nhóm thành ngọn lửa.

*

Ngọn lửa nhỏ không dùng để làm gì

Vẫn có thể đốt lên điếu thuốc

Giữa cuộc đời mênh mông

 

TRẨN NHÃ THỤY

 

 

16.Suy nghĩ về những mối tình trong tác phẩm của Đào Hiếu

 

Bàn về nghệ thuật trong các tác phẩm của Đào Hiếu là cả một vấn đề rộng lớn, cần có những công trình nghiên cứu mang tính chuyên nghiệp.

Ở đây, xin nói đôi lời về những mối tình mang tính “nổi loạn” trong một số truyện dài của Đào Hiếu. Nói theo cách của người đọc bình thường, không theo cách của nhà nghiên cứu.

Những mối tình đẹp nhất trong truyện của Đào Hiếu là những mối tình không được xã hội thừa nhận. Theo cách nhìn thông thường, đó là tình yêu của những kẻ cuồng si, dại dột, liều mạng, yêu mà không nghĩ đến hậu quả của tình yêu, yêu bất chấp cả tương lai, cả mạng sống của chính mình. Những mối tình tuyệt vọng, oan trái. Những mối tình không hôn thú, không hợp pháp.

Những cặp tình nhân đến với nhau không vì bất kỳ mục đích gì. Họ đến với nhau đơn giản bởi một sự đồng điệu, bởi một sự cộng hưởng. Nói cho đúng hơn thì có một sức mạnh vô hình kéo họ lại với nhau. Trước khi “chàng” và “nàng” gặp nhau, sức mạnh đó chưa hề được đánh thức. Nhưng một khi nó thức dậy, sẽ không có gì ngăn nổi. Nó sẽ phá vỡ mọi rào cản.

Đó là mối tình của những cặp Phan-Ngọc (Nổi loạn), Duy-Huệ (Vòng tay người khác),…

Khi đọc về những mối tình như thế, trong giới độc giả sẽ hình thành ba nhóm.

Nhóm thứ nhất lên án với tất cả sự giận giữ. Nếu ở ngoài đời, họ sẵn sàng tham gia hành hạ hoặc chứng kiến sự “trừng phạt” với một sự khoái trá, thoả mãn.

Nhóm thứ hai cảm thấy hứng thú khi đọc, và có sự chia sẻ, cảm thông với nhân vật, nhưng ở ngoài đời thì họ vẫn tham gia lên án.

Nhóm thứ ba – gồm một thiểu số ít ỏi – thực sự sống với nhân vật. Họ chia sẻ những cảm xúc, những giây phút hạnh phúc của nhân vật, lo lắng cho nhân vật mình yêu quý, đau đớn khi nhân vật phải chịu đựng những kết cục bất hạnh, thường là cùng cực.

Nhóm người thứ nhất không chỉ lên án những kẻ tình si. Họ lên án cả những người thuộc nhóm thứ ba. Và lên án luôn cả người dám viết những chuyện như vậy với giọng văn tỏ ra đồng tình với việc “tà dâm” (những tác giả như Đào Hiếu không còn non nớt gì về bút pháp để phải khen chê nhân vật của mình, nhưng dù thế nào thì ý đồ sáng tác vẫn lộ rõ.)

Nhóm này có thế mạnh huỷ diệt của số đông, có sức mạnh của truyền thống lịch sử hàng ngàn năm. Trong hàng ngàn năm, người ta đã chỉ mô tả những kẻ ngoại tình như những kẻ độc ác nhất, xấu xa nhất trên đời này. Trong hầu hết các thiên truyện được viết ra xưa nay, những kẻ ngoại tình bao giờ cũng mưu toan giết vợ, giết chồng, chủ trương bỏ con cái, huỷ hoại gia đình. Họ bị gọi một cách khinh bỉ là những “thằng gian phu”, những “con dâm phụ”, bất kể vợ hoặc chồng họ là loại người như thế nào.

Nhóm người thứ nhất cố tình không thừa nhận một sự thật là: không phải mọi kẻ ngoại tình đều có ý đồ giết vợ, giết chồng, huỷ hoại gia đình.

Trên thực tế, có không ít những người vướng vào chuyện ngoại tình, nhưng ý thức trách nhiệm đối với gia đình không hề suy giảm, thậm chí còn tăng lên.

Họ yêu người khác không phải để hại vợ hoặc chồng mình, không phải để hại con cái mình. Không cần thiết phải gọi việc làm của họ là “phản bội”.

Nếu một người dấn thân vào chuyện ngoại tình không phải để tìm kiếm sự thoả mãn nhục dục thuần tuý, mà trước hết vì sự say mê, vì có một mãnh lực vô hình kéo người đó lại với người kia, thì người đó thậm chí thường là người đa cảm, mà đã là người đa cảm thì không có âm mưu làm hại ai, càng không thể có ý đồ giết những người chung sống với mình.

Thông thường, khi chuyện ngoại tình bị lộ và tiếp theo là gia đình tan vỡ, thì chính người “bị phản bội” là người chủ động đập tan cái gia đình đó, kèm theo những hành động và lời nói nhục mạ gây đau đớn tận cùng không phải chỉ cho kẻ bị quy là “phản bội”, mà cho cả những đứa con. Họ làm việc đó thực chất chỉ vì cảm thấy “quyền sở hữu” của mình bị xâm phạm. Họ cảm thấy thoả mãn khi hành hạ. Nếu kẻ ngoại tình là phụ nữ thì thường là còn phải chịu sự hành hạ bằng vũ lực và sự phỉ nhổ của những người chung quanh. Trong một vài trường hợp, người đàn ông có quan hệ yêu đương ngoài hôn thú cũng có thể phải chịu sự hành hạ về thể xác đến kinh hoàng (giống như hoạ sĩ Duy trong Vòng Tay Người Khác).

Và mỗi khi bị hành hạ, những “kẻ phản bội” thường chỉ im lặng chịu đựng hoặc quằn quại, gào thét, nhưng không chủ tâm trả đũa. Phản ứng của họ có thể rất cực đoan, nhưng không xuất phát từ ý đồ hại người.

Người ta có thể chất vấn: sao đã biết là ngoại tình sẽ dẫn đến đổ vỡ mà những kẻ kia vẫn lao vào? Như thế chẳng phải cố tình phá hoại hạnh phúc gia đình hay sao?

Vâng, họ có quyền chất vấn, phán xét, bởi họ có thế mạnh của truyền thống và của số đông.

Nhưng họ không hiểu một điều rằng tình yêu thực sự không có gì ngăn cản được. Họ không hiểu được rằng tình yêu thuần khiết không có khuôn mẫu, không thể bị quy định bởi các luật lệ.

Trong khoảng hơn một thế kỷ qua, đã có một số nhà văn dám đặt lại vấn đề về chuyện ngoại tình. Họ bênh vực cho những kẻ ngoại tình, đặc biệt là những phụ nữ có chồng nhưng không có hạnh phúc gia đình. Những Anna Karenina (Anna Karenina của Lev Tolstoy), những Megan Cleary (Meggie) (The Thorn Birds của C. McCullough),… đã giành  được sự thông cảm của người đời. Độc giả Việt Nam cũng đã khá quen và thích đọc những truyện như thế. Nhưng có một điều lạ: nếu đó là truyện Việt thì dễ bị lên án là có quan điểm lệch lạc hoặc thậm chí đồi trụy!

Thế mà Đào Hiếu, chẳng những cũng cả gan viết về những mối tình “không hợp pháp”, ngang nhiên miêu tả cảnh yêu đương của những kẻ ngoại tình, mà còn dám xem thường những người “bị cắm sừng”, trong khi họ là những cán bộ cách mạng, những quan chức trong hệ thống quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa!

Về mặt tình cảm, rất nhiều người (trong đó có tôi) tin chắc rằng Đào Hiếu không phải là kẻ xem thường nhân dân. Trái lại, ông đang viết vì nhân dân.

Nhưng khi viết những truyện tình “nổi loạn”, Đào Hiếu đã dũng cảm đối mặt không chỉ với hệ thống quyền lực, mà với hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu người, trong đó đại đa số chính là nhân dân!

Nhưng hãy nhớ rằng đây là sự ĐỐI MẶT chứ KHÔNG PHẢI ĐỐI KHÁNG. Đối mặt để kêu gọi thức tỉnh, không phải để đối đầu!

Khát vọng về cái đẹp, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn cho hàng triệu người – đó chính là những gì thôi thúc Đào Hiếu viết.

*

Tôi không phải nhà nghiên cứu văn học nên không biết phân tích, bình giảng từng câu chữ, nhất là bằng những thủ pháp hàn lâm. Thay cho việc đó, xin trích một trong những đoạn đối thoại giữa hai người yêu nhau mà tôi rất thích: đối thoại của cặp Duy-Huệ trong “Vòng Tay Người Khác”:

”Nhưng bây giờ ngồi với tôi trong quán cà phê bên bờ sông đầy gió, Huệ chỉ là một cô gái mười chín tuổi, là con gái vua Hùng Vương. Là nàng công chúa mặc áo đỏ. Tôi ngồi cách xa nàng, để có thể ngắm, quan sát, chiêm ngưỡng, rình rập. Nàng cười khi nhìn cái mặt ngây ngô dại gái của tôi. Nàng hỏi:

-Anh thấy em đẹp lắm hả?

-Ừ.

-Có gì đẹp đâu?

-Mắt đẹp.

-Mắt đẹp thế nào?

-Không biết. Không nói được. Nhưng mà đẹp. Rất tình. Nhìn ai người đó vỡ tim ra mà chết.

-Xạo. Một điểm. Còn cái gì đẹp nữa?

-Miệng đẹp.

-Ðẹp thế nào?

-Môi đỏ. Nhất là khi anh vừa hôn xong thì nó ửng lên như trái chín, thơm và ngọt. Mát. Bổ.

-Xạo nữa. Một điểm. Cái gì đẹp nữa?

-Hàm răng. Răng đều bóng ngời. Cười hồn nhiên như hoa lá.

-Cải lương quá ông ạ. Không điểm. Về chỗ quỳ!

-Khoan đã. Chưa tả hết. Còn cái mũi.

Huệ hỏi:

-Mũi em mà đẹp?

-Ðứa nào bảo không đẹp, em chỉ anh, anh giết nó.

-Chuyện đó tính sau. Nhưng anh thấy mũi em đẹp à? Nhiều người bảo mũi em là mũi sửa.

-Tại vì họ thấy đẹp quá nên họ ganh tị. Mũi như mũi cô đầm mà không đẹp à?

-Nịnh. Mất tư cách. Ðạo đức một điểm.

-Nhưng nói chung là em rất đẹp. Quỷ ạ. Ðẹp vừa vừa thôi nhường cho thiên hạ đẹp một tí, mình giành hết cũng kỳ.

Huệ kêu lên:

-Trời ơi! Tại sao lại cho tôi gặp một ông bồ nói dóc và nịnh bợ quá cỡ vầy nè!

Tôi bảo:

-Nhưng anh lại thấy là anh nói chưa hết ý. Diễn tả chưa đúng với những gì anh cảm nhận về nhan sắc của em.

Huệ lại cắn tay tôi, mút đầu ngón tay tôi như em bé.

-Thôi được. Huệ bảo, cho anh nói nữa đấy. Nói chung em cũng thích. Có rất nhiều người đàn ông tâng bốc em, nhưng họ nịnh đến câu thứ ba thì em đã ngấy rồi. Còn anh thì không. Anh là cái đồ quỷ. Suốt ngày nịnh bợ, anh nói cả ngàn câu tâng bốc nhưng em lại không thấy chán. Em cũng thích nghe anh nịnh lắm.

Nhưng tôi không thèm nịnh nữa. Tôi hôn nàng. Chúng tôi hôn nhau như đùa. Lẩn tránh, đuổi bắt, cắn xé, ngấu nghiến.”

*

Đọc những đoạn văn như vậy, thật khó mà bình luận được gì. Chỉ có cảm giác thoả mãn, sung sướng vì cái đẹp, vì tình người, vì được chia sẻ.

Phải rất từng trải, phải sống rất thật, phải có khả năng cảm thụ tinh tế, phải rất có duyên, đồng thời phải là bậc thầy trong nghề viết mới cho ra được những trang, những dòng như thế.

Thú thật, đã có lúc tôi cố thử viết theo kiểu đó. Viết xong đọc lại, thấy chẳng ra gì.

Đến khi gặp Đào Hiếu (gặp trên những trang sách!), thấy chẳng cần và chẳng nên cố nữa!

NGUYỄN TRẦN SÂM

  

17.Cảm nhận tính cách và văn phong Đào Hiếu

 

1. THẬT

Một sự phản chiếu cuộc sống xã hội VN sát thực chưa từng có. Đọc Đào Hiếu, mọi thứ cứ lồ lộ hiện ra. Những sự kiện xã hội đều thực. Diễn biến tâm lý nhân vật hoàn toàn có lý. Lời thoại ngắn, như trong cuộc sống thực (rất hiếm nhà văn Việt viết được những lời thoại như vậy; lời nhân vật của họ, kể cả nông dân, công nhân,…cũng cứ như những câu viết của nhà văn vậy!) Trong văn ĐH, ngay cả những chi tiết mang tính hư cấu đến hoang đường, cũng thực!

 

2. ĐẸP

Thật nhưng không tầm thường. Những hình ảnh như Vua Mèo, Lọ Lem,… đầy mộng mơ. Và đẹp. Vẻ đẹp ngoại hình, đặc biệt là của những nhân vật nữ, được phác thảo theo một phong cách riêng hết sức lôi cuốn. Còn vẻ đẹp tâm hồn thì thường ẩn giấu sau những tính cách khó chấp nhận đối với xã hội.

Chỉ có những người khát khao cái đẹp thực sự, không muốn chấp nhận những mẫu hình được áp đặt sẵn, mới nhận ra vẻ đẹp chân chính ở những nhân vật đó.

Lời văn ĐH cũng có vẻ đẹp say lòng. Những người quen với lối văn chải chuốt cầu kỳ khó lòng nhận ra vẻ đẹp này. Văn ĐH cô đọng, dồn nén thông tin, không có lời thừa. Lối viết vừa phóng túng vừa rất chọn lọc (ngay cả những lời chửi thề cũng hợp lý)! Vốn từ vựng thì vô cùng phong phú. Một bậc thầy ngôn ngữ! Một VẺ ĐẸP HIỆN ĐẠI. Hiện đại nhưng vẫn không xa rời ‘‘lý tưởng cổ điển” (idéal classique): khát vọng mãnh liệt về tình yêu và cái đẹp tự nhiên mà tinh tế.

Đọc ĐH, khó lòng dứt ra được.

 

3. VỐN VĂN HÓA

Theo cảm nhận của tôi thì: khi viết, ĐH không hề có ý thể hiện sự uyên bác. Những điển tích được nhắc thoáng qua, những thành ngữ, ngạn ngữ Hán hoặc Hán-Việt cổ hay vài ba từ tiếng Anh hoặc Pháp xuất hiện gần như bất chợt. Và hết sức tự nhiên. Người cố tình làm duyên với ngôn từ không bao giờ đạt tới sự tự nhiên đó.

Một đôi dòng về âm nhạc hay nghệ thuật tạo hình xuất hiện đây đó cũng cho thấy một sự am tường và thị hiếu tinh tế.

Sự uyên thâm thể hiện rõ nhất ở những nhận định về nhân tình thế thái. Tuy tách rất xa chính giới, nhưng ĐH hiểu rất rõ những gì mà các tập đoàn chính trị và tài phiệt trên phạm vi toàn thế giới đang làm. Không phải lúc nào những nhận định của ông cũng tuyệt đối chính xác, nhưng ông hiện đang gióng lên những hồi chuông đánh thức những hàng triệu người còn quá mơ hồ về chính trị.

 

4. NÓNG VÀ LẠNH

Hơi văn của ĐH hầm hập sức nóng. Sức nóng đó xuất phát từ bầu nhiệt huyết của một con người dám chấp nhận mọi hiểm nguy, trước kia là với mục tiêu đánh đổ một thể chế bằng bạo lực, góp phần lập ra một thể chế khác, còn bây giờ là để vạch ra chân lý, phơi bày sự thật, tạo ra tiềm năng ý thức hệ cho những thay đổi trong tương lai.

Tuy nhiên, cũng có thể cảm thấy ngày nay cái đầu của ĐH đã “lạnh” hơn. Bởi vì, nếu chỉ có nhiệt huyết không thôi thì rõ ràng không thể có những nhận định tinh tường như thế về thời cuộc.

MICHAEL LANG

VỀ “KẺ TỬ ĐẠO CUỐI CÙNG” CỦA ĐÀO HIẾU

Trong số các tác phẩm của Đào Hiếu, Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng có lẽ không phải là tác phẩm mà ông tâm đắc nhất. Ở mức độ nào đó, nó có vẻ như chuyện đùa. Viết cho vui, để giải trí. Và để tạo ra sự đa dạng của các mảng đề tài.

Vậy mà những vấn đề mà nó đặt ra, hoặc gợi ra, thì hoàn toàn nghiêm túc. Những câu hỏi không mới, chúng đã có từ hàng trăm năm, nhưng không hẳn là dễ trả lời. Đó là những câu hỏi về lẽ sống, về nghệ thuật. Và cả vấn đề về (tâm hồn) những cô gái đẹp.

*

Câu chuyện chủ yếu nói về bốn người đàn ông còn khá trẻ, thuộc hai “tuyến”. Tuyến thứ nhất có: Phạm Hưng – nhà soạn nhạc, Lê Đạo – nhà văn, Nguyễn Xuân Đắc – nhà điêu khắc; cả ba đều chưa mấy nổi tiếng. Tuyến thứ hai chỉ có một nhân vật: đó là một kẻ lang thang, không gia đình, không bạn bè, không tài sản, không nhà. Và sống gần như vô mục đích. Anh ta có một cái tên nhưng cũng chẳng mấy khi có người gọi đến. Có thể gọi anh ta là Kẻ Điên Khùng.

Hai tuyến nhân vật này vừa đối lập nhau, vừa có những đoạn trùng nhau. Và chính những đoạn trùng nhau này làm cho sự đối lập trở thành đối kháng đến cực độ. Đến mức họ không thể cùng tồn tại. Thậm chí phải cùng chết!

Hoạt động sống của bốn nhân vật này xoay quanh hình bóng một cô gái trẻ đẹp bán cà phê, tên Hồng. Nhưng cô ta chỉ đóng vai trò một sức hút vô hình. Sự tồn tại của cô thực sự rất mờ nhạt. Cô ta đẹp, có lẽ là rất đẹp. Nhưng chỉ có vậy. Ngoài một vài động tác (“khuấy cà phê cho nhà văn bằng những ngón tay thon thả của mình, chậm chạp, lặng lẽ và trìu mến”) và một hai câu nói khá nhỏ nhẹ, cô không thể hiện gì thêm. Gần như không có tính cách.

Vậy mà cả bốn người đàn ông khá trẻ kia đã phải sống và chết vì nàng. Trong cả tâm và trí của họ không có gì khác, ngoài Hồng.

Họ yêu Hồng, nhưng chưa ai từng được chạm vào người nàng, thậm chí chạm vào tay cũng không. Cả Nguyễn Xuân Đắc là người đã từng ngủ với hàng chục người đàn bà con gái, trong đó có người được anh yêu quý hẳn hoi, khi có mặt Hồng cũng thấy sợ. (“Khi nhìn xuống đất thấy mấy ngón chân trắng hồng của cô gái, tim anh hồi hộp và anh chỉ muốn bỏ đi. Lúc cái bàn chân xinh đẹp kia biến mất, Đắc mới choàng tỉnh, hấp tấp đứng dậy.”) Cả Kẻ Điên Khùng, mặc dù có gan giết người và không thể sống nếu không có Hồng, cũng chưa từng cả gan chạm vào người nàng. Chỉ dám nói “Không có em anh sẽ chết mất” và “cầm chiếc guốc của cô gái lên hôn hít như điên như dại”. Họ yêu Hồng để tôn thờ, như yêu một vị Chúa Trời.

Chính vì vậy mà Lê Đạo đã đề xướng ra một cái đạo, gọi là Hồng Đạo. Để tôn thờ Hồng, tôn thờ cái đẹp. Điều đó đối với bộ ba Hưng-Đắc-Đạo là hoàn toàn hợp lý. Vì họ đều là những nghệ sĩ thực thụ. Mà nghệ sĩ thì còn cần tôn thờ gì, ngoài Cái Đẹp? Và một khi có hàng triệu người tự nhận mình là tín đồ của một cái “đạo” gọi là Maradona-đạo, thờ một cựu danh thủ bóng đá tuy từng rất có tài nhưng cũng không ít những trò nhiễu nhương, thì Hồng Đạo tôn thờ một người con gái đẹp – tại sao không?

Và ba người đã cắt máu hòa rượu uống thề, như Lưu Quan Trương tại yến Vườn Đào. Đoạn này được Đào Hiếu kể lại bằng giọng văn “trang trọng”, vừa hơi giống Tam Quốc Diễn Nghĩa, vừa có hơi hướng tiểu thuyết võ lâm, chỉ khác là có một từ “Whisky” rất “tây” và rất “hiện đại”:

“Nói xong Lê Đạo cầm con dao cán ngà lên cứa vô cổ tay mình một nhát, nhểu mấy giọt máu vô chén rượu Whisky. Hưng và Đắc cũng bắt chước làm theo. Khi máu của ba người đã hòa lẫn vào trong rượu, Lê Đạo liền kính cẩn nâng chén rượu lên ngang mày, gọi tên HỒNG ba tiếng rồi đưa chén rượu lên môi uống một phần tư. Uống xong, anh trao chén rượu cho Hưng và nhắc:

-Các ngươi nhớ chừa lại một phần tư…”

Những sự việc tiếp theo là hai hành động cực đoan của Kẻ Điên Khùng (tự đốt ngón tay và cắt một tai) làm Hồng và quán cà phê phải trải qua những chấn động khủng khiếp. Nhưng rồi vài tháng sau mọi việc trở lại gần như bình thường.

Nửa năm sau thì ba “đạo tử” đã bắt đầu gặt hái những thành quả của việc theo Hồng Đạo. Từ những nghệ sĩ ít nhiều có năng khiếu và tâm huyết, họ đã trở thành những tài năng lỗi lạc, giống như quỷ thần đã nhập vào họ. Và không nghi ngờ gì, chính tình yêu với bản chất tôn thờ đã làm nên điều kỳ diệu.

Hưng đã biến căn phòng vốn sạch sẽ ngăn nắp thành một nơi bừa bộn, bởi sự sạch sẽ ngăn nắp giờ đây chẳng còn ý nghĩa gì trước niềm đam mê quên cả trời đất và cả bản thân. Anh đàn, và viết nhạc, với “khuôn nhạc của anh to như những luống cày, như những đường ray không thẳng hàng, nốt nhạc thì có khi chỉ là những nét vạch chéo, những vòng tròn lệch, và những dấu móc thì bay bướm như lá cờ phướn, như đuôi con chim trĩ”. Không có thời gian cho sự nắn nót, khi thác âm thanh mà chỉ mình anh nghe thấy ập đến, nếu không viết vội ra giấy thì chúng sẽ kéo nhau bay đi mất. Đó là lúc người nghệ sĩ chìm trong một sự quên lãng ngọt ngào, và cả thế giới chung quanh không còn tồn tại đối với chàng. Chàng đã viết 15 bản sonate, trong đó có Sonate Cánh Chim mà chàng đắc ý nhất. “Hưng sử dụng nhiều hợp âm rải để tạo ra sự mênh mang của nỗi nhớ, và khi giai điệu đi đến cuối con đường của nó, anh để cho tay trái lồng lên với những chùm hợp âm táo bạo chuyển sang Mi trưởng”. Rồi “chàng đàn đi đàn lại không biết bao nhiêu lần, quên cả mệt mỏi, quên cả thời gian, quên cả giấc ngủ…

Chưa hết.

Nhưng bỗng nhiên đang bước đi giữa phố thì dòng nhạc ở đâu bỗng lùa về như gió lộng trong thảo nguyên mênh mông giữa đêm lạnh buốt. Chàng nhìn thấy một ánh lửa du mục cháy lập lòe trong sương mù và chàng hoảng hốt, cuống cuồng sợ dòng nhạc trôi đi mất.

Đó là lúc chàng cho ra đời bản SonateTheoGióBay với số phận trôi nổi. Nó bị gió cuốn đi tan tác và chỉ quay trở lại với chủ nhân do một sự may mắn đặc biệt.

Nguyễn Xuân Đắc “tạc hai bức tượng bán thân, một bức Hồng mặc áo xẩm, kẹp tóc đuôi gà, bức kia Hồng khỏa thân, tóc bay tự nhiên”. Nhưng chàng vẫn chưa ưng ý. Chàng suy nghĩ rồi quyết định ra Bãi Dâu tạc một bức tượng mà nửa thân thể Hồng như lộ ra từ trong đá, trên một ngọn núi. Sau 15 ngày đêm gần như liên tục ăn ngủ tại chỗ, chàng đã hoàn tất bức tượng mà gần như ngay lập tức nó đã làm chàng trở nên nổi tiếng ở cả trong và ngoài nước.

Còn Lê Đạo, chàng quyết định viết một pho kinh cho Hồng Đạo. Để làm việc đó, chàng đã phải đọc kỹ cả Kinh Tân Ước của đạo Ki Tô, 160 bài phong của Kinh Thi, và Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Rồi chàng quyết định tìm ra bút pháp riêng của mình. Trong Hồng Đạo Kinh, chàng đã chép lại mọi việc, từ lúc Hồng ra đời, lớn lên thành một tuyệt thế giai nhân, kể lại các mối tình của ba đạo tử chính thức và của Kẻ Điên Khùng chống lại họ nhưng thực chất cũng là tín đồ Hồng Đạo.

Một pho “kinh” như vậy đương nhiên là làm cho rất nhiều tầng lớp trong xã hội nổi điên. Đặc biệt là những tầng lớp đáng kính: các chính trị gia, các giáo sư, các nhà giáo dục, giới tăng lữ, và cả những lực lượng “bảo vệ chế độ”. Nhưng họ càng phê phán bao nhiêu thì càng làm cho giới tín đồ của Hồng Đạo đông đảo bấy nhiêu, nhất là trong giới trẻ.

Trong khi đó, Kẻ Điên Khùng, đóng vai một nhà sư khất thực, vốn không muốn chia sẻ tình yêu với bất cứ ai, đã không từ một hành động cực đoan và dã man nào để triệt hạ mọi nguy cơ phải chia sẻ. Y đã đập phá tan tành chiếc piano của Hưng, hai bức tượng bán thân tả Hồng và bức tượng Đắc tạc chính mình dưới chân Hồng trên núi ở Bãi Dâu. Rồi y lần lượt bắn chết Đắc và Hưng, bắn trọng thương Lê Đạo (mà y tưởng là cũng chết). Sau đó, y đánh thuốc mê Hồng, vác nàng ra bến sông, trói nàng lại, và khi Hồng tỉnh dậy, y đã tự thiêu trước mặt nàng.

Lê Đạo, linh hồn của Hồng Đạo, tuy không chết vì ba phát súng của Kẻ Điên Khùng, nhưng đã tự tìm đến với Thần Chết sau một cuộc gặp đầy bất ngờ. Nhưng trước khi nói đến cuộc gặp đó, ta hãy nói đến một nhân vật nữa. Đó là nhân vật thứ năm, một nhân vật phụ. Ông ta là Hoành Bá, một chủ tiệm chạp phô người Tàu, không biết cả chữ Việt lẫn chữ Tàu và bỗng nhiên trở nên giàu có vì bán được bộ chén cổ mà Lê Đạo phát hiện ra trên đó có ghi “Càn Long nội phủ”. Bán xong thì ông ta không còn sống ở Sài Gòn nữa.

Lê Đạo nằm viện gần một năm. Vào thời gian cuối, chàng nghe tin Hồng mất tích và có khả năng đã tự sát. Vừa ra viện, chàng đã lập tức tìm đến nhà Hồng. Không dò được gì, chàng quyết định đi Phan Thiết tìm Hoành Bá với hy vọng dò hỏi được điều gì đó về tung tích của Hồng. Có thể nói câu chuyện đã chấm dứt tại đó. Một kết thúc quá bất ngờ nhưng không phi lý: Lê Đạo nhận ra người đàn bà trẻ đẹp đang ngồi đấm lưng cho Hoành Bá chính là đối tượng tôn thờ của cái Đạo của chàng và các bạn chàng! Diễn biến tiếp theo dẫn đến cái chết logic của Lê Đạo chỉ còn là để hoàn tất câu chuyện.

Lê Đạo chết. Nhưng không phải chết cho Đạo, mà chết vì sự sụp đổ của Đạo. Vì đối tượng để tôn thờ tỏ ra quá tầm thường.

*

Việc Lê Đạo phát hiện ra sự tầm thường của Hồng đã đưa anh và chúng ta trở lại thế giới thực. Đó là một thế giới với không ít những cái đẹp, nhưng cũng đầy những cái không đẹp, và cả những cái rất xấu. Trong những cái không đẹp có thế giới nội tâm của những người đẹp, kể cả những người đẹp đến mê hồn, đẹp đến mức mà nhìn vào ta hầu như luôn có cảm giác chiều sâu tâm hồn họ là vô hạn. Ta không thể tin rằng họ có thể làm việc gì đó không xứng đáng. Nếu bạn là nhạc sĩ chẳng hạn, bạn sẽ tin rằng nàng có thể cảm thụ được đầy đủ các bản nhạc mà bạn soạn ra. Không loại trừ có những người đẹp như vậy, nhưng than ôi, đa số những người đẹp không thuộc loại đó!

Như vậy thì Đạo, Đắc và Hưng là những kẻ ngu xuẩn chăng? Họ đã tôn thờ cái không đáng tôn thờ? Bằng chứng là cuộc gặp cuối cùng giữa Lê Đạo và Hồng tại nhà Hoành Bá? Những đầu óc thực dụng hoàn toàn có thể dùng sự kiện này và cái kết cục bi thảm của câu chuyện để chứng minh rằng các “đạo tử” là những kẻ điên rồ, ngu ngốc, thậm chí kết tội họ vì đã đầu độc hàng ngàn thanh niên trong trắng.

Nhưng việc đánh giá họ lại là vấn đề khác. Ở đây, cần phân biệt đối tượng của sự tôn thờ với bản thân sự tôn thờ, phân biệt người được yêu với tình yêu. Tình yêu thực sự, dù là mù quáng, dù là hướng tới một người không đáng được yêu, vẫn có nét đẹp của nó. Sự tôn thờ, nhất là tôn thờ cái đẹp, bao giờ cũng có khía cạnh đáng trân trọng. Ngay cả sự tôn thờ của Kẻ Điên Khùng cũng không hoàn toàn đáng lên án.

Cho dù Hồng không đáng để những người đàn ông kia yêu say đắm và tôn thờ như vậy, nhưng rõ ràng chính sự say mê chứ không phải bất kỳ điều gì khác đã giúp họ làm nên những tác phẩm để đời, đóng góp vào kho tàng những giá trị tinh thần cao quý của nhân loại. Liệu có bao nhiêu người “tỉnh táo” làm nổi những việc như vậy?

Người ta vẫn có thể lấy cái kết cục bi thảm để chê bai ba chàng nghệ sĩ. Điều này thật khó có thể dùng lý luận mà minh định. Chỉ xin so sánh việc họ đàng hoàng chấp nhận cái chết với chi tiết cuối cùng trong truyện ngắn bất hủ “Đêm Ai Cập” của Pushkin: khi nữ hoàng Cleopatra ra giá là cái chết cho một đêm hoan lạc cùng nàng, vẫn có những kẻ hiên ngang chấp nhận. Họ đến với Thần Chết một cách bình thản, chấp nhận thà chết còn hơn kéo dài một cuộc đời vô vị. Có thể gọi họ là những tín đồ của Cleo-đạo.

Và nói về nghệ sĩ, xin trích những câu cuối trong một bài ca của người ca sĩ – thi sĩ ứng tác cũng trong “Đêm Ai Cập”:

 

Đó, thi sĩ, đội trời đạp đất
Bước chân đi và cất lời ca
Như cánh chim ưng mãi bay không mỏi
Như con tàu thường rời bến đi xa.
*
Không bận tâm ai chê, ai thích
Không hỏi vì sao cơn lốc xoáy tròn
Không bực bội vì sao người mỹ nữ
Yêu chàng da đen, người dũng tướng cô đơn.

 

Và Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng của Đào Hiếu mãi là một bài ca đẹp.

NGUYỄN TRẦN SÂM

CHÚ THÍCH: Những câu thơ ở cuối bài trích từ bản dịch “Đêm Ai Cập” của Nguyễn Trần Sâm, đã đăng trên website Lề Bên Trái của Đào Hiếu. (Hiện còn lưu trên website của Nguyễn Xuân Khoa xuankhoa.violet.vn). “Người mỹ nữ” và “chàng da đen” nói về Desdemona và Othello của Shakespeare. 

 

 

 18.Đào Hiếu, ông là ai?

Câu hỏi treo lên và đã có quá nhiều câu/cách trả lời! Một tên Việt Cộng ngu xuẩn, một gã cò mồi chính trị, một nhà văn đối kháng, một người muốn mua sự nổi tiếng bằng văn chương nổi loạn, một cây bút trung thực, một người cách mạng chân chính, một tên phản bội ăn cháo đá bát… Những cái áo khác màu khoác vội, những nhãn mác rậm rì dán bít bùng khuôn mặt Đào Hiếu. Họ đang đứng trên những lằn ranh địch-ta, bạn-thù, văn-chương-chính trị-xã hội …rất khác biệt để nhận diện, nên Đào Hiếu ông là ai …vẫn còn đó mơ hồ, nhầm lẫn, đôi khi rối mù bao nhiêu luận điệu trù đập, lên án, tụng ca …

Tôi là người ĐỌC Đào Hiếu và may mắn gặp anh hai lần bằng xương bằng thịt. Mùa xuân, thành phố buổi chiều vẫn cấp tập và náo động. Xe như nước, bụi như sương nhoen nhét và ồn ĩ thanh âm cáu giận. Dưới tán cây  thẫm bóng hôn hoàng, tôi nhìn Đào Hiếu nhâm nhi. Rượu sóng sánh soi một khuôn mặt chữ điền hừng hực nam tính. Nhìn, Đào Hiếu vẫn còn đầy phong độ và sức sống nam nhi dù đuôi mắt lục tuần đã in dấu những vệt chân chim. Anh kể tôi nghe – không phải những cái chuyện vặt/không vặt của cái thời sinh viên liều mình như chẳng có, hay buổi ăn muối ngủ hầm làm cách mạng – mà kể những chuyện tình của đời mình. Ký ức tình, anh nói, vẫn là những vết thương đau lói ngày mưa tháng gió. Và tôi nhận ra những chuyện tình của anh đỏ như máu, nóng như sôi, vẫn lục lạo trái tim và quẫy động trên từng phân ly thịt da người đàn ông đa tình.

Vâng, trên và ngoài tất cả, Đào Hiếu là một gã LÃNG TỬ ĐA TÌNH mà đa tình tự cổ thiên di hận. Cái hận đó, Đào Hiếu để trào ra đầu ngọn bút nên văn chương anh còn hơn cả sự thật trần truồng: những mối tình mê đắm, những thân phận ngựa hoang, những mảnh vỡ đi lạc …Thục (Kỷ niệm đàn bà), Phượng (Hoa dại lang thang), Ngọc (Nổi loạn), Thu (Mạt Lộ) …không phải là những hình nhân đất sét nặn từ óc tưởng tượng mà là xương thịt, máu huyết, tâm tình nồng cháy của một Đào Hiếu tài tử đa tình đa cảm. Họ, mỗi người một vẻ, khác nhau về xuất thân nhưng đều có chung một điểm cơ bản trong tính cách: xa lạ với cuộc đời, nổi loạn trong tình yêu, bứt phá những taboo tình dục …

*

Buổi chiều gió, lao xao gió nhưng câu chuyện về Ngọc như những nhát cắt băm vụn cả một chiều xuân đẹp. Hỏi thế gian Tình là vật gì?  Và Đào Hiếu thầm thì vào tai tôi: “Nổi Loạn” là một chuyện tình có thật trăm phần trăm, thật những cơn say, giọt máu chảy …Tôi đã viết, không, là ghi lại những cuộc làm tình với đầy ắp ngẫu hứng trong veo. Này đây là một hiến dâng/chiếm đoạt ngọt ngào:

“Ngọc ném quấn áo của Phan xuống đất, mặt ngời như lửa. ‘Em sẽ nghiền nát anh’. Phan cảm thấy hai cái vú của Ngọc đè lên ngực mình, tóc nàng che lấp cả khuôn mặt chàng. Người đàn bà trẻ đóng đinh chàng trên pháp trường, vùi lấp chàng bằng cào cấu, cắn xé.” (Nổi Loạn)

Trong đời thường, Ngọc là một phần đời máu thịt của anh, với đủ cay chua mặn đắng, máu và nước mắt, hoan lạc và địa ngục. Bên cạnh là Thục, Phượng, Thu …những người phụ nữ nóng bỏng yêu thương, khát khao đi tìm một chân trời tự do nhưng cứ bị cuốn xoáy vào cái bi kịch lẩn quẩn của kiếp người: bị hãm hiếp, trấn lột, bội phản, lừa lọc …Họ hoàn toàn mất niềm tin, lạc phương hướng, nên thả nổi phận mình lêu bêu rong rêu cho đến khi gặp chàng tài tử và tình yêu thành viên thần dược, tình dục treo lên cái phao cứu sinh, cứu rỗi phận người.

Phượng, cô con gái nhà giàu bỏ nhà theo một anh hề (làm xiếc) dọc đuờng gió bụi. Thục, một sinh viên trong trắng bám theo một gã buôn lậu lang bạt kỳ hồ …Họ yêu nhau trên cỏ, trên đá, trên lá hoa, yêu nhau như muôn loài muông thú dưới mặt trời, từ chối tiện nghi vật chất xa hoa, như một phản ứng hiện sinh tích cực trong cái thế giới đồng tiền lên ngôi với máu me và sex, cái thế giới bốc mùi vo ve những ruồi nhặng đen đầu, những xác chết của người và chuột.

Và, chúng ta tìm thấy giữa những cuộc tình nhân gian ở đây một Đào Hiếu ngầy ngật men tình, phóng dật, tự do đến bất cần, sẵn sàng sổ toẹt những chân lý giáo điều luật lệ, sẵn sàng quẳng bỏ vào thùng rác chợ trời, phường phố, phe phái những mưu toan…

Khi “Nổi Loạn” xuất bản năm 1993 thì ngay lập tức, những tay cơ hội và cả những kẻ bị ám ảnh tình dục đã nhập cuộc và lãng tử bị đập tơi tả như cái mền rách.

Đơn giản thôi, người ta cứ muốn giấu đi những mặt trái, những ẩn ức, những lở loét ung nhọt. Nụ cười anh bỗng nở trên môi: Tôi đóng vai khán giả. Tôi ngồi hàng ghế dưới, hút thuốc lá và thỉnh thoảng vỗ tay…(Đ.H trả lời phỏng vấn báo Diễn ĐànParis)     

Tôi cũng muốn vỗ tay theo anh nhưng chân tay hầu như bất động khi Vẩn Thạch –những mảnh vụn vơ vẩn của thiên thể –  đã tan tác về với bụi tro ngay dưới chân em, cội nguồn. Còn Hề, mặt như ngáo ộp khi người ta lấy đi, truớc mũi mình, nguồn sống ấm nóng yêu thương. Buôn lậu, thân nam tử, cuối cùng nổ tan xác pháo; bụi đời, trượng phu ngạo nghễ đành bó tay trơ mắt nhìn người yêu bị cướp đoạt trên biển.

Phan của “Nổi Loạn”, như thể, đã cố gắng khép mình trong trật tự viên chức, nhưng những trang viết và công việc buồn ngủ đến trì độn của một biên tập viên có nghĩa gì giữa dòng đời xiết chảy hoang mang bỗng bùng lên một tình yêu da diết với vực sâu núi đèo mê hoặc.

Nguyễn Du xưa, dù có hâm mộ Từ Hải “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cũng đành cho Từ chết đứng giữa trận tiền và ngã xuống khi giọt lệ giai nhân ướt chân. Từ chết vì bằng lòng trao tấm thân muôn trượng, và mười vạn tinh binh trong tay nàng. Từ không chết vì thua trận Hồ Tôn Hiến.

Đào Hiếu đã để cho Vẩn Thạch nằm chết như thế khi người đẹp sang sông, cho Hề quay quắt khô héo khi em, cánh chim bay đi biển rộng.

Không thể khuấy bùn lên khua sóng mà chơi, và vì con đường nào cũng rập rình những mưu toan bẩn thỉu, những nhân vật hóa thân của Đào Hiếu đành quay lưng với cuộc đời, im lặng mộng mơ, chế giễu và …tắc. Cửa hẹp, Ngọc quay về tìm con, và Phan lãng tử hồi đầu về nhà với …vợ. Thế đó, đa tình phải chăng để hận mênh mang, sầu lênh loang?

Nhưng đa tình với đa cảm là hai trong một. Nếu như Từ chỉ biết vùi vào ngực Kiều hương lửa nồng nàn mà không biết động lòng bốn phương thì hắn cũng chỉ là một tên võ biền hạng bét. Đào Hiếu biết động lòng nên ngắn dài trăn trở mà bất lực, thôi thì làm một ngọn lửa nhỏ.

Ngọn lửa nhỏ không dùng để làm gì

Vẫn có thể đốt lên điếu thuốc

Giữa cuộc đời mênh mông

       (Lạc Đuờng)

Phải chăng anh cũng muốn đốt một điếu thuốc để chiêu hồn? Không, anh dụi thuốc vào gạt tàn vì quá khứ chẳng có gì để chiêu. Anh nhấc ly và tu tận hoan dù nhân sinh chẳng hề đắc ý. Bỏ đi, anh nói, hãy rời bỏ loài người, hãy đến chỗ của vô tận, chỗ của phi thời gian…

*

Đêm về sâu nhưng quán vẫn ầm ào. Người vẫn lũ lượt tìm say để lăn  quay, quên đi cái thế giới đang bốc mùi trứng rận, chối bỏ mớ lý tưởng bùi nhùi giẻ rách, và làm biến đi những cái mặt đầu trộm đuôi cướp nhan nhản giữa cuộc ngày … Đào Hiếu có khác hơn. Ngay trong tự truyện “Lạc Đường”, sau khi nôn thốc nôn tháo bao nhiêu bí ẩn tưởng như là vĩ đại dị kỳ của nhân sinh, anh chàng mê lạc đã vội vàng tắm gội và đùa giỡn với cái của quý của mình, bằng lòng làm một con cá voi hoành tráng: 

Tôi nằm ngửa, duỗi dài, buông thả, nhìn ngắm thân thể trần truồng của mình lấp lóa nắng. Cái dương vật dài, suôn, rập rềnh theo mảng lông đen ngời như rong rêu. Tôi không còn là một ông già sáu mươi tuổi mà là một con cá voi nhỏ đang thưởng thức sự cường tráng của mình. Tôi đang sống. Đang hòa nhập. Đang hóa thân. Đang vô danh (Lạc Đường).

Có lẽ tôi thích Đào Hiếu vì bao giờ anh cũng sẵn sàng truồng và thật như thế..

Sài Gòn tháng 2/09

LÊ VŨ

1 comments on “DƯ LUẬN

  1. Tôi đến với “Lạc Đường” từ một sự lạc đường, và tôi không biết mình đã lạc vào khoảng không gian, thời gian của tác giả từ lúc nào. Tôi đọc tác phẩm này với tư cách là một kẻ đam mê cái đẹp, tôi thành thật cám ơn tác giả vì ông đã đưa tôi đi từ vùng đất này qua vùng đất khác, đọc truyện những tưởng sẽ khô khan nhưng tôi lại lại được thưởng lãm từ danh lam này qua thắng cảnh khác.
    Ngoài ra, tôi rất thích những tư tưởng độc đáo của nhân vật Dã Nhân, triết lý của ông làm cho tôi cho ngộ ra nhiều điều. Một lần nữa thành thật cảm ơn tác giả!

Bình luận về bài viết này