Zorba ra đi, cũng lẫm liệt, cũng bùng nổ như khi lão còn sống. Niết bàn của lão bừng sáng như bình minh chói loà nơi rặng núi xa. Lão đã tự giải thoát. Không ai có thể giải thoát cho lão, và lão cũng không thể giải thoát cho ai được, kể cả “ông chủ” người vẫn coi lão như một vị bồ tát.
“Tự giải thoát” là một trong những tư tưởng quan trọng của giáo lý Phật giáo Theravada.
Trong “Trung Bộ Kinh”, chúng ta có thể tìm thấy những lời Phật dạy: “Ngươi hãy tự cứu lấy ngươi, không ai có thể làm thay cho ngươi điều đó.” Và đó cũng là sự khác biệt lớn giữa Nam Tông và bắc Tông, giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Zorba tự nhận mình là kẻ thất học. Lão vứt các tư tưởng triết học, các tôn giáo vào sọt rác. Nhưng rốt cuộc lão vẫn là một vị Bồ Tát. Bồ Tát Alexis Zorba.
Zorba đã tự giải thoát cho mình – cũng giống như Siddhartha – bỏ lại một chốn hồng trần bề bộn, tàn bạo và đầy rác rưởi. Nhưng lão cũng bất lực như Phật, không thể giải thoát giúp ai được. Phật chỉ để lại những kinh nghiệm tu tập gọi là “pháp hành” và mọi người, nếu muốn giải thoát, hãy tự tu tập lấy.
Zorba cũng để lại một trần gian mênh mông, tàn ác và đầy những tiếng than khóc, những giết chóc và cướp bóc. Lão để lại trần thế bi thương này những phận người bạc bẽo.
Zorba chết nhưng thời gian thì vẫn tồn tại vĩnh cửu. Nó vẫn là một sát thủ, vẫn là kẻ giết người hàng loạt, vẫn là con quái vật lừng lững nện những bước chân khổng lồ, chậm rãi, ung dung, lạnh lùng bước tới, bước tới và nghiền nát những mảnh đời mong manh nhỏ bé, hèn mọn.
Cho nên bi kịch tàn nhẫn của nhân loại vẫn tiếp diễn trong đắng cay và đau xót.
Trích:
“…Thốt nhiên, tôi dừng ngay lại như thể tôi đã đến nơi mong muốn. Ở đâu? Tôi nhìn quanh: Tôi đang đứng trước nhà góa phụ. Sau hàng giậu lau sậy và lê gai, tôi nghe thấy một giọng đàn bà dịu dàng ngân lên nho nhỏ. Tôi lại gần, rẽ lá nhìn vào. Dưới tàn lá cam, có một người thiếu phụ mặc đồ đen, ngực nở nang. Nàng vừa cắt những cành trổ hoa vừa cất tiếng hát. Trong ánh hoàng hôn, tôi trông thấy bộ ngực nửa trần của nàng sáng lóa.
…Góa phụ đã cảm thấy sự hiện diện của tôi? Nàng đột nhiên ngừng hát và quay lại. Cặp mắt chúng tôi giao nhau, chớp nhoáng. Ðầu gối tôi quỵ xuống, như thể tôi đã trông thấy một con cọp cái sau rậu lau.
– Ai đó? Nàng hỏi, giọng tắc nghẹn.
Kéo tấm khăn quàng cổ xuống che ngực, nàng sa sầm nét mặt.
Tôi sắp sửa dời chân đi, nhưng những lời nói của Zorba chợt dâng lên ngập hồn tôi. Tôi thu hết can đảm. “Biển, đàn bà, rượu…” Tôi trả lời:
– Tôi đây. Tôi đây. Mở cửa cho tôi.
Những lời nói đó vừa thốt ra, một nỗi kinh hoàng choáng ngập lấy tôi. Tôi lại sắp bỏ chạy. Nhưng tôi chế ngự tôi, xấu hổ cùng mình.
– Tôi là ai?
Nàng rón rén bước một bước thận trọng, vươn cổ ra, nheo mắt lại để nhìn cho rõ hơn và bước thêm một bước nữa, cúi đầu phía trước, nghe ngóng.
Thình lình khuôn mặt nàng tươi tỉnh. Nàng thè đầu lưỡi ra và liếm môi.
– Ông chủ? Nàng hỏi bằng một giọng dịu dàng hơn.
Nàng tiến lên thêm một bước, thu mình lại như sẵn sàng chồm lên.
– Ông chủ phải không? Nàng cất tiếng khàn khàn hỏi.
– Vâng.
– Vào đi!
Mối quan hệ ấy đã bị phát hiện và người thiếu phụ ấy đã bị dân làng ném đá giống y như chuyện của nàng Madeleine trong Tân Ước, nhưng tàn khốc hơn nhiều.
Trích:
Ngay lúc đó, góa phụ xuất hiện trước ngưỡng cửa nhà thờ, đầu chít khăn choàng đen. Nàng làm dấu.
Những tiếng nói vang lên trên công trường.
– Khốn kiếp! Thối thây! Sát nhân! Nó cả gan dám chường mặt ra đây! Nó đã làm nhục cả làng!
Một số gã tuần phu chạy tới nhà thờ, những kẻ khác, đứng trên cao, bắt đầu lấy đá ném nàng. Một hòn đá trúng vai nàng. Nàng thét lên, lấy tay che mặt và lao về phía trước, cúi xuống để chạy trốn. Nhưng những thanh niên đã đi tới cửa nhà thờ và Manolakas đã rút dao găm ra.
Góa phụ lùi lại vừa thốt lên những tiếng kêu sợ hãi, gập mình xuống để che chở mặt và lảo đảo chạy vào nhà thờ. Nhưng lão Mavrandoni đã đứng án ngữ trên ngưỡng cửa, tay dang ra, chặn mất lối vào.
Góa phụ nhẩy sang bên trái và ôm lấy thân cây trắc bá lớn trong sân. Một hòn đá rít lên trong không khí, trúng đầu nàng và làm rớt cái khăn choàng đầu. Tóc nàng rũ rượi và xõa xuống vai.
– Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Nàng vừa hét, vừa ôm chặt lấy cây trắc bá.
Ðứng nối đuôi nhau trên công trường, những thiếu nữ gặm khăn hau háu nhìn cảnh tượng đang xảy ra trước mắt. Những mụ già, dựa lưng vào tường, la the thé:
– Giết nó đi! Giết nó đi!
Hai thanh niên nhẩy xổ vào túm lấy nàng, áo khoác ngoài của nàng toạc ra, vú nàng sáng lóa, trắng muốt như tuyết. Máu từ đỉnh đầu chẩy xuống trán, má và cổ.
– Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Nàng hổn hển.
Máu chẩy, ngực sáng lóa đã kích thích các thanh niên. Những con dao được rút ra khỏi thắt lưng.
Manolakas hét:
– Dừng lại! Nó là của tao!
Mavrandoni, vẫn còn đứng trên ngưỡng cửa nhà thờ, giơ tay lên. Tất cả dừng lại. Lão trang nghiêm nói:
– Manolakas, máu của em họ ngươi kêu gào. Cho nó được an nghỉ!
Tôi nhẩy xuống khỏi bờ tường lao mình về phía nhà thờ; chân tôi vấp phải hòn đá và tôi ngã xuống đất.
Ngay lúc đó, Sifakas đi qua. Gã cúi xuống, nắm lấy cổ tôi xách lên như người ta xách một con mèo và đặt tôi đứng lên. Gã nói:
– Mi muốn kiếm gì ở đây, hử, đồ công tử bột? Xéo đi!
– Anh không thương bà ta sao, Sifakas? Tôi hỏi. Hãy thương hại mụ!
Gã dân miền núi mọi rợ phá lên cười:
– Tôi có phải đàn bà đâu mà nói thương hại! Tôi là một người đàn ông!
Và phắt một cái, gã đã ở trong sân nhà thờ.
Tôi theo gã bén gót nhưng mệt thở không ra hơi. Bây giờ tất cả đang vây quanh góa phụ. Một sự im lặng nặng nề bao trùm. Người ta chỉ nghe thấy hơi thở tắt nghẹn của nạn nhân.
Manolakas làm dấu, tiến lên một bước và giơ dao lên, những mụ già đứng trên tường, la eo éo một cách sung sướng. Những thiếu nữ kéo khăn quàng xuống che mặt.
Góa phụ ngẩng lên trông thấy lưỡi dao trên đầu nàng, rống lên như một con bò cái tơ. Nàng gục xuống gốc cây trắc bá và rụt đầu vào. Tóc nàng xõa trên mặt đất, khuôn cổ trắng ngần của nàng lấp lánh sáng mờ.
– Con xin khẩn cầu lẽ công bằng của Chúa! Lão Mavrandoni thét lên và gã cũng làm dấu.
Nhưng ngay lúc đó, một tiếng nói lớn vang lên sau lưng chúng tôi:
– Bỏ dao xuống, quân sát nhân!
Tất cả đều sửng sốt quay lại. Manolakas ngẩng đầu lên; Zorba đang đứng trước mặt gã, khoa tay một cách phẫn nộ. Hắn hét:
– Các ông không biết xấu hổ sao? Can đảm quá! Cả làng xúm lại để giết một người đàn bà! Coi chừng kẻo các ông làm ô danh toàn thể đảo Crete đó!
– Hãy lo lấy việc của người Zorba! Ðừng xen vào việc của chúng tôi! Mavrandoni gầm lên.
Ðoạn lão quay sang đứa cháu nói:
– Manolakas, nhân danh Chúa và Ðức Mẹ Ðồng Trinh, đánh!
Manolakas chồm lên. Gã túm lấy góa phụ xô nàng xuống đất, kê đầu gối trên bụng nàng và giơ cao con dao găm của gã. Nhưng trong chớp mắt Zorba đã chụp được cánh tay Manolakas và với cái khăn cuốn quanh bàn tay, hắn cố gắng tước con dao.
Góa phụ quì gối, dáo dác nhìn quanh để tìm đường thoát thân, nhưng dân làng đã chặn hết lối đi. Họ đứng thành một vòng tròn quanh sân và trên ghế dài; khi họ thấy nàng định tìm lối thoát, họ tiến lên một bước và vòng vây thắt chặt dần.
Trong khi Zorba lặng lẽ chiến đấu một cách khéo léo, gan dạ và bình tĩnh. Tôi đứng gần cửa nhà thờ lo lắng theo dõi trận đấu. Manolakas mặt đỏ tía tai vì cuồng nộ, Sifakas và một gã khổng lồ nữa lại gần để định giúp sức gã. Nhưng Manolakas giận dữ, trừng mắt:
– Lui ra! Lui ra! Không ai được lại gần đây hết! Gã hét.
Gã lại điên cuồng lao vào Zorba. Gã dùng đầu tấn công hắn như một con bò mộng.
Zorba bặm môi không nói năng gì cả. Hắn giữ chặt cánh tay phải gã tuần phu như một cái kềm, và né sang phải sang trái để tránh những cú bổ đầu của gã tuần phu. Tức giận như điên, Manolakas nhẩy tới và ngậm lấy tai Zorba ra sức cắn xé. Máu vọt ra.
– Zorba! Tôi kinh sợ vừa la lên vừa lao tới để cứu hắn.
– Tránh ra ông chủ! Hắn hét! Ðừng can thiệp vào chuyện này.
Hắn nắm tay và giáng cho Manolaskas một cú như trời giáng vào bụng dưới. Lập tức con dã thú rời ra. Răng nó nhả ra, rời cái tai bị rách một nửa, và khuôn mặt đỏ tía của gã trở thành trắng bệch. Bằng một cú thần tốc, Zorba xô dụi gã xuống đất; tước lấy dao và bẻ gẫy làm đôi.
Hắn lấy khăn tay thấm máu chảy ròng ròng từ tai. Ðoạn hắn lau mặt đầm đìa mồ hôi và tất cả khuôn mặt hắn lem luốc máu. Hắn đứng thẳng lên, đưa mắt liếc quanh: cặp mắt hắn mọng đỏ. Hắn hét lên với góa phụ:
– Ðứng lên! Ði với tôi!
Và hắn hướng về cổng nhà thờ.
Góa phụ đứng dậy; nàng thu hết sinh lực, lấy đà phóng tới trước. Nhưng nàng không có thì giờ. Tựa một con ó, lão Mavrandoni chồm lên nàng, dúi nàng xuống, quấn mái tóc đen dài của nàng ba vòng quanh cổ tay và, bằng một nhát dao, lão cắt phăng đầu nàng.
– Tôi chịu trách nhiệm về tội lỗi này! Lão hét to, và quăng đầu nạn nhân lên thềm nhà thờ. Ðoạn lão làm dấu.” (Hết trích)
Và sự độc ác của con người thế gian sẽ còn tiếp diễn mãi ngày nào còn cái giống người trên trần thế.
Trích:
“Zorba lần này không buồn cử động để bắt nó ngậm miệng nữa. Hắn nhìn người đàn bà đang khóc lóc và hôn hít Chúa Gia-tô trong khi một vẻ dịu dàng bất ngờ dàn trải trên khuôn mặt bị tàn phá của mụ.
Cửa mở, lão Anagnosti, mũ cầm nơi tay, rón rén bước vào. Lão lại gần người bệnh, cúi xuống và quì gối. Lão nói với mụ:
– Xin bà tha thứ cho tôi, tha thứ cho tôi, và Chúa sẽ tha thứ cho bà. Tha thứ cho tôi nếu đôi khi tôi nói với bà một lời nghiệt ngã. Chúng tôi chỉ là người.
Nhưng người đàn bà thân mến bây giờ nằm im lặng chìm đắm trong một niềm vĩnh phúc khôn tả, và mụ không nghe thấy những lời nói của lão Anagnosti. Tất cả những dầy vò của mụ đã biến mất – tuổi già bất hạnh, những đàm tiếu, những lời nghiệt ngã mà mụ phải chịu, những buổi chiều buồn bã ngồi trên ngưỡng cửa một mình và đan những đôi vớ quê mùa như một người đàn bà lương thiện tầm thường, người đàn bà Ba Lê thanh lịch này, người đàn bà uốn éo quyến rũ này, người, trong lúc đắc thời, đã khiến cho Tứ Cường nhẩy tưng tưng trên đùi và được bốn hạm đội dàn chào!
Biển xanh mầu thiên thanh, sóng trào bọt, những pháo đài nổi ngả nghiêng, những lá cờ đủ mầu sắc phất phới trên những cột buồm. Người ta ngửi thấy mùi chim đa đa quay và những con cá hồng trên rá sắt, trái cây ướp lạnh được mang lại trong những chén pha lê và những nút champagne vọt lên trần thiết giáp hạm.
Râu đen, hung, xám, vàng, bốn thứ hương thơm: nước hoa đổng thảo, eau de Cologne, xạ hương, long diên hương, những cánh cửa buồng kim loại đóng lại, những rèm cửa nặng nề hạ xuống, ánh sáng được thắp lên. Mụ Hortense nhắm mắt. Tất cả cuộc đời tình ái, tất cả cuộc đời dầy vò của mụ, a! Lạy Chúa, nó chỉ tồn tại giây phút nữa thôi…
Mụ chuyển từ lòng này sang lòng khác, ôm trong tay những binh phục thêu vàng, luồn ngón tay vào những hàm râu thơm nức. Mụ không nhớ nổi tên họ. Như con két của mụ, mụ chỉ nhớ Canavaro, bởi chàng là người trẻ nhất trong bọn và tên chàng là cái tên duy nhất con két có thể phát âm. Những tên khác phức tạp, khó khăn và vì thế trôi vào quên lãng.
Mụ Hortense thở dài và say đắm ghì lấy tượng Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự.
– Caranavo của em, Canavaro yêu dấu của em…, mụ vừa mê sảng vừa ghì chặt tượng Chúa vào bộ ngực vữa nhão của mụ.
Dì Lenio nói khẽ:
– Mụ bắt đầu không biết mình nói gì. Chắc mụ đã trông thấy thần hộ mệnh và mụ thất kinh…, chúng mình hãy cởi khăn ra và lại gần chút nữa.
Mệ Malamatenia cự nự:
– Chết chửa dì không còn kính sợ Chúa Trời một tí nữa sao, hở? Dì muốn hát vãn ca trong khi mụ hãy còn sống ư?
Dì Lenio càu nhàu:
– Ha, mệ Malamatenia, thay vì nghĩ tới cái rương và quần áo của mụ, tới hàng họ cửa tiệm, tới gà qué với thỏ trong sân, mệ ngồi đó mà nói phải chờ cho mụ thở hơi cuối cùng! Không! Ăn cỗ phải đi trước, thật đấy!
Nói đoạn, mụ đứng lên và mụ kia tức tối đi theo. Họ cởi khăn vuông đen, xõa mớ tóc bạc lưa thưa và níu lấy thành giường. Dì Lenio ra hiệu bằng cách thốt lên một tiếng kêu chát chúa dài, làm người ta sởn gai ốc:
– I i i i i!
Zorba nhào tới, túm tóc hai mụ già và đẩy họ lùi lại. Hắn quát:
– Ngậm mõm lại, mấy con mụ quạ khoang! Không thấy mụ vẫn còn sống à? Cút đi!
Mệ Malamatenia vừa càu nhàu vừa chít khăn lại:
– Lão già lẩm cẩm! Không biết lão ở đâu chui ra thế này, đồ phá đám!
Mụ Hortense, mụ ngư nữ già cực kỳ truân chuyên, nghe thấy tiếng kêu inh ỏi bên giường. Ảo tượng dịu dàng tan tác, soái hạm chìm nghỉm; chim quay, rượu champagne, râu thơm nức biến mất và mụ lại ngã xuống giường lâm chung hôi hám, ở góc biển chân trời. Mụ cố gượng ngồi dậy như thể mụ muốn trốn thoát, nhưng mụ lại rơi mình xuống và rên rỉ một cách thảm thiết, thê lương…
– Tôi không muốn chết! Tôi không muốn!
Zorba cúi xuống, sờ bàn tay hộ pháp chai cứng lên vầng trán nóng bỏng của mụ và vuốt những sợi tóc lòa xòa dính vào mặt mụ xuống; cặp mắt chim của hắn giàn giụa nước mắt. Hắn thì thầm:
– Em đừng nói nữa, đừng nói nữa, em yêu; anh đây, Zorba đây, đừng sợ!
Và đây rồi ảo tưởng trở lại như một con bướm mầu xanh nước biển khổng lồ phủ hết cái giường. Kẻ hấp hối siết bàn tay hộ pháp của Zorba từ từ duỗi tay ra và vòng quanh khuôn cổ đang cúi xuống của hắn. Môi mụ mấp máy:
– Canavaro của em, Canavaro yêu quí của em…
Tượng Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự rơi tuột khỏi gối, rơi xuống đất. Một giọng đàn ông vang lên trong sân:
– Ê! Anh em, bỏ gà vào nồi đi, nước sôi rồi!
*
Tôi ngồi trong góc phòng, thỉnh thoảng nước mắt lại trào ra. Ðời là thế, tôi tự nhủ, sặc sỡ, rời rạc, lãnh đạm, đồi bại. Tàn nhẫn. Những nông dân dã man Crete vây quanh mụ ca kỹ già nua đến từ địa cầu trái đất này và nhìn mụ chết với một nỗi vui vẻ man rợ như thể mụ không phải là con người.
Như thể một con chim ngoại quốc khổng lồ tạp sắc gẫy cánh rơi xuống bãi biển này và họ xúm lại ngó nó chết. Một con công, một con mèo xứ Angora, một con hải cẩu đau ốm…
Zorba nhẹ nhàng gỡ cánh tay của mụ Hortense quàng quanh cổ. Hắn đứng dậy, xanh mét. Hắn lấy mu bàn tay chùi nước mắt. Hắn nhìn con bệnh nhưng không thấy gì cả. Hắn chùi nước mắt một lần nữa và kịp nhìn thấy mụ lay động hai bàn chân mềm nhão, sưng phù và miệng méo mó một cách kinh hoàng. Mụ vật vã một lần, hai lần, khăn trải giường tuột xuống đất và mụ hiện ra mình trần, đẫm mồ hôi, sưng phù, vàng tái. Mụ hét lên một tiếng chát chúa, chói tai tựa một con gà khi bị cắt tiết, đoạn mụ nằm bất động, mắt mở lớn, kinh sợ và đờ đẫn.
Con két nhẩy xuống từng dưới lồng bíu lấy nan sắt, nhìn Zorba chìa bàn tay hộ pháp vuốt mắt mụ với một vẻ dịu dàng vô hạn.
– Tất cả lẹ lên! Mụ mất rồi, những mụ khóc mướn vừa la the thé, vừa nhào tới giường.
Họ thốt lên một tiếng kêu dài, ngả người về phía trước và phía sau, nắm tay và đấm ngực. Dần dần sự lay động bi ai và buồn tẻ đã tạo ra trong họ một trạng thái thôi miên nhè nhẹ, những buồn đau cũ của riêng họ tràn ngập tâm trí họ như nọc độc, vỏ bao trái tim rạn vỡ và bài vãn ca trào ra.
“Nằm dưới đất, không thích hợp với ngươi…”
Zorba ra sân. Hắn muốn khóc, nhưng xấu hổ trước mặt những người đàn bà. Tôi nhớ có lần hắn bảo tôi: “Tôi không xấu hổ nếu khóc trước mặt những người đàn ông. Giữa đàn ông với nhau, có một sự đồng nhất nào đó, đúng không? Ðó không phải là một điều nhục nhã. Nhưng trước mặt đàn bà, ta phải luôn luôn tỏ ra dũng cảm. Bởi vì nếu chúng ta cũng khóc lóc thì những kẻ đáng thương đó sẽ ra sao? Tận thế mất rồi!”
Họ tắm mụ bằng rượu, mụ già khâm liệm mở rương quần áo sạch sẽ ra thay cho mụ, dội một chai eau de Cologne lên người mụ. Từ những vườn lân cận những con ruồi bay tới, đẻ trứng trong lỗ mũi, quanh mắt và trong mép mụ.
Hoàng hôn xuống. Bầu trời về phương Tây đẹp một vẻ đẹp thanh thản. Những đám mây nõn đỏ tía, viền vàng, êm ả bay qua cái tím ngắt của trời chiều, lúc trông như những con tầu, khi nom tựa những con thiên nga, quỉ sứ dị kỳ làm bằng bông len và lụa xơ. Thấp thoáng qua kẽ lau lách trong sân người ta trông thấy những cánh sóng vàng lóa của biển động.
Hai con quạ béo từ một cây vả gần đó hạ xuống và đi đi lại lại trên sân lát đá. Zorba tức giận lượm một hòn sỏi và xua đuổi chúng.
Cuối sân, những kẻ cắp ở vườn ruộng của làng đang tổ chức một bữa tiệc khủng khiếp. Họ đã khiêng cái bàn lớn trong bếp ra, sục sạo khắp nơi tìm bánh, đĩa chén, muỗng nĩa. Họ đang mang từ dưới hầm lên một hũ rượu vang, luộc gà. Bây giờ, đói meo và sung sướng, họ cụng ly nhau ăn uống ngon lành lắm.
– Chúa cứu vớt linh hồn mụ! Và cầu cho tất cả những việc mụ làm trôi theo dòng nước hết!
– Và cầu cho tất cả những tình nhân mụ trở thành thiên thần và chở linh hồn mụ tới thiên đàng!
– Phải ngó ngàng tới lão Zorba một chút, Manolakas nói. Lão đang liệng mấy con quạ kìa! Bây giờ lão thành người góa vợ rồi, mời lão lại đây uống một ly để tưởng nhớ con gà mái của lão! Ê! Xếp Zorba, ê đồng bào!
Zorba quay lại thấy bàn đầy đồ ăn, những con gà bốc hơi nghi ngút trong đĩa, rượu lóng lánh trong ly, những gã trai tráng khỏe mạnh rám nắng với những khăn choàng cổ quấn quanh đầu, đầy vô tư và trẻ trung.
– Zorba! Zorba! Hắn lẩm bẩm. Hãy đứng vững! Ðây là lúc ta kỳ vọng nơi ngươi!
Hắn lại gần, uống một hơi hết một ly rượu, rồi một ly thứ hai, rồi một ly thứ ba và ăn một cái đùi gà. Họ nói với hắn, nhưng hắn không trả lời. Hắn ăn uống như gió cuốn, hau háu, nhồm nhoàm uống từng hơi dài, lặng lẽ. Hắn đăm đăm nhìn về phía buồng nơi người bạn già của hắn nằm bất động và lắng nghe bài vãn ca thoát ra từ cửa sổ mở rộng. Thỉnh thoảng, điệu tang tóc gián đoạn và người ta có thể nghe thấy những tiếng la thét cãi nhau và cánh cửa tủ mở ra khép vào và những bước chân nặng nề, nhanh nhẹn như họ đang đánh nhau. Ðoạn bài vãn ca lại cất lên ảo não, tuyệt vọng, dịu dàng như tiếng ong bay.
Những mụ hát mướn đang chạy đi chạy lại trong phòng người chết, hát vãn ca trong khi lục lọi như điên cuồng mọi xó xỉnh. Họ mở chạn, tìm thấy vài cái muỗng, một chút đường, một hộp cà-phê và loukoums.
Dì Lenio vồ lấy hộp cà-phê và loukoums. Mệ Malamatenia chụp lấy đường và muỗng. Mệ nhẩy lên và cũng nhón được hai viên loukoums, bỏ tuốt vào mồm và bài vãn ca lần này nghẹn ngào, ngắc ngứ qua những thỏi đường.
“Cầu cho hoa mưa rơi trên vai ngươi và táo rơi vào lòng ngươi…”
Hai mụ đàn bà khác lẻn vào phòng nhào tới cái rương, thò tay vào và chụp lấy một vài cái khăn tay nhỏ xíu, hai ba cái khăn bông, ba đôi vớ, một cái nịt vớ, nhét vào áo lót quay về phía người chết nằm trên giường và làm dấu.
Mụ Malamatenia nhìn hai mụ già ăn cắp rương và nổi giận:
– Hát tiếp đi dì, hát tiếp đi, tôi trở lại liền! Mụ hét lên với dì Lenio, và mụ cũng dúi đầu vào trong rương.
Những miếng giẻ sa tanh, một cái váy mầu hoa cà lỗi thời, một đôi giày săng đan đỏ cổ lỗ sĩ, một cây quạt gãy, một cây dù đỏ thắm mới tinh và tận dưới đáy, một cái mũ thủy sư đô đốc hình tam giác. Một món quà ngày xưa người ta tặng cho mụ Bouboulina. Khi chỉ có một mình trong nhà mụ thường đội lên, nghiêm trang và buồn rầu ngắm mình trong gương.
Có người lại gần cửa. Mấy mụ già lảng ra, dì Lenio lại bíu lấy giường người chết và bắt đầu vừa đấm ngực vừa la:
“…và những bông cẩm chướng đỏ thẫm đeo quanh cổ ngươi…”
Zorba bước vào, nhìn người chết, bây giờ đang nằm im lặng, êm ả, vàng vọt và phủ đầy ruồi, tay khoanh trước ngực, và một giải băng lụa nhỏ quanh cổ.
“Một hòn đất, hắn nghĩ, một hòn đất biết đói khát, cười nói, ôm hôn. Một cục bùn khóc lóc. Và bây giờ? Quỉ sứ nào đem ta ra tới trần gian và quỉ sứ nào đem chúng ta đi?”
Hắn nhổ bọt và ngồi xuống.
Ngoài sân bọn thanh niên đã hợp lại khiêu vũ. Gã chơi thất huyền cầm tuyệt kỹ, Fanurio, đã đến và họ dẹp bàn ghế qua một bên, quẳng những thùng dầu, thùng đựng nước, chậu giặt, dọn chỗ để khiêu vũ.
Những hương mục xuất hiện: bác Anagnosti với cây gậy dài đầu uốn cong và áo chemise trắng rộng; Kondomanolio, tròn quay và dơ dáy; vị giáo viên với một cái nghiên mực lớn trong thắt lưng và một quản bút xanh giắt sau tai. Lão Mavrandoni không có mặt, lão đã đi vào trong núi như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật.
– Rất sung sướng được gặp lại các con! Bác Anagnosti vừa nói vừa giơ tay lên. Rất sung sướng vì các con vui đùa! Ăn uống đi, cầu Chúa ban phước lành cho các con! Nhưng không được la hét. Người chết có thể nghe, các con nên nhớ, người chết có thể nghe.
Kondomanolio giải thích:
– Các bác tới để làm bản kê khai của cải của người chết để chia cho những người nghèo trong làng. Các con đều ăn uống, no say cả, thế là đủ rồi! Không được khuân tất cả đồ đạc ở đây đi, nếu không… Nhìn đây!
Nói đoạn lão khua cây gậy trong không khí, vẻ đe dọa.
Ðằng sau ba quan viên xuất hiện một bọn chừng chục mụ đàn bà đầu bù tóc rối, chân đất, quần áo rách như tổ đỉa. Mỗi người cắp một cái bị không và khoác một cái giỏ trên lưng. Họ lén lút đi tới, rón rén, im lặng.
Bác Anagnosti quay lại, thấy họ và tức giận:
– Ê! Bọn cha căng chú kiết kia, bước đi cho mau! Sao! Ðịnh nhào vô cướp hả? Người ta kê khai tất cả, lần lượt từng thứ một rồi chia đều cho người nghèo trong trật tự và công bằng. Bước đi cho mau, nghe rõ chưa?
Vị hương sư móc thắt lưng lấy ra cái nghiên mực bằng đồng, giở một tờ giấy khổ lớn ra rồi đi tới cửa tiệm nhỏ để bắt đầu làm bản kê khai.
Nhưng ngay lúc đó, người ta nghe thấy một tiếng động chát chúa ố như thể có người đập trên những cái hộp sắt, như thể những cuộn chỉ rơi xuống, ly tách xô vào nhau và bể. Và trong bếp, người ta nghe thấy tiếng nhộn nhạo om sòm của xoong chảo, đĩa bát và muỗng nĩa.
Lão Kondomanolio vừa lao vào bếp vừa vung cây gậy. Những mụ già, đàn ông, con nít nhào vào như gió qua cửa, leo cả qua cửa sổ, trèo qua giậu và nhẩy từ bao lơn xuống, mỗi người lấy cái họ có thể vồ lấy được: xoong, chảo, nệm, thỏ… Một vài kẻ gỡ cả cánh cửa và vác trên lưng. Mimitho cũng lấy đôi giầy ban của người quá cố, buộc vào một sợi dây đeo quanh cổ ố trông tựa như mụ Hortense ngồi cưỡi trên vai gã và chỉ có đôi giầy mụ có thể trông thấy rõ…
Vị hương sư cau mày, thu cái nghiên mực vào thắt lưng, gấp tờ giấy tinh tuyền lại đoạn lẳng lặng không nói một lời với vẻ cao kỳ bị sỉ nhục nặng nề vượt qua ngưỡng cửa và khuất dạng.
Bác Anagnosti đáng thương vừa gầm thét, van xin đám dân nghèo ngừng lại vừa khua gậy dọa nạt họ:
– Nhục nhã lắm! Nhục nhã lắm! Người quá cố đang nghe các người đó, biết không?
– Tôi có phải đi gọi thầy tư tế đến không? Mimitho hỏi.
– Thầy tư tế nào? Ðồ khùng! Kondomanolio điên tiết quát. Mụ là dân Tây Âu; mi không thấy mụ làm dấu thế nào à? Bằng bốn ngón tay – như thế này – đồ bị trục xuất khỏi giáo hội! Thôi hãy đem chôn mụ xuống đất đi, trước khi mụ bắt đầu hôi thối và gieo bệnh truyền nhiễm khắp làng!
– Mụ bắt đầu có đầy sâu, coi đây, tôi xin thề có Chúa! Mimitho vừa kêu lên vừa làm dấu.
Bác Anagnosti, tiên chỉ trong làng, lắc cái đầu cao nhã.
– Mi lấy làm lạ lắm à? Ðồ ngốc! Quả thực con người đầy sâu bọ từ ngày mới sinh ra đời, nhưng người ta không nhìn thấy đấy thôi. Khi chúng thấy người ta bắt đầu hôi thối, chúng chui ra khỏi lỗ liền – trắng bóc, trắng tựa những con bọ phó mát!
Những vì sao thứ nhất hiện ra và hãy còn treo lơ lửng trong thinh không, lung linh, như những cái chuông bằng bạc. Suốt đêm không ngân nga.
Zorba hạ cái lồng két xuống khỏi đầu giường người chết. Con chim mồ côi thu mình trong một góc, khiếp sợ. Nó mở mắt thao láo nhìn nhưng không hiểu đâu vào đâu cả. Nó vùi đầu vào cánh và co quắp lại.
Khi Zorba gỡ lồng của nó, con két nhỏm dậy. Nó muốn nói, nhưng Zorba vươn tay ra chặn.
– Im đi, hắn thì thầm một giọng nghẹn ngào, im đi! Ði với ta.
Zorba cúi xuống nhìn kẻ quá vãng. Hắn nhìn mụ thật lâu, cổ họng se sắt.
Hắn nghiêng mình xuống như định hôn mụ, nhưng hắn tự kìm hãm mình.
– Thôi chúng ta đi, trăm sự nhờ trời! Hắn lẩm bẩm.
Hắn nhặt cái lồng két lên và bước ra sân. Hắn trông thấy tôi và lại gần.
– Chúng ta đi thôi…, hắn vừa nói khẽ vừa nắm cánh tay tôi.
Hắn có vẻ trầm tĩnh, nhưng môi hắn run run.
– Tất cả chúng ta cùng đi con đường đó…, tôi nói để an ủi hắn.
– Chờ một lát, tôi nói. Họ sắp chôn mụ. Chúng ta chờ một lát xem… Bác không thể nán lại một vài phút nữa à?
– Ðược rồi…, hắn nghẹn ngào trả lời.
Hắn đặt cái lồng xuống đất và khoanh tay lại.
Từ phòng người chết bác Anagnosti và Kondomanolio đầu trần đi ra. Họ làm dấu. Sau họ, bốn người trong số những vũ công, với những bông hồng mùa Xuân hãy còn giắt sau tai, vui vẻ, nửa tỉnh, nửa say, mỗi người nâng một góc tấm cửa trên đó họ đặt thi thể mụ già. Theo sau là gã chơi đàn thất huyền với nhạc cụ của gã, chừng một chục đàn ông nữa, ngà ngà say, hãy còn nhai tóp tép và năm sáu người đàn bà, mỗi người cầm một cái xoong hay một cái ghế. Mimitho đi sau cùng với đôi giầy ban vẹt gót đeo quanh cổ.
– Sát nhân! Sát nhân! Sát nhân! Gã la lên một cách đùa giỡn.
Một cơn gió nóng, ẩm ướt, nổi lên và biển động. Gã chơi thất huyền nâng cung đàn. Tươi mát, hân hoan, nhạo báng, giọng hát của gã dâng lên trong đêm oi nồng:
“Tại sao, ôi vầng dương, sao mi lặn quá vội vàng?…
– Ta đi thôi! Zorba nói, thế là hết…
*
Cái cõi trần gian này ghê gớm như thế đấy.
Loài người khốc liệt như thế đấy.
Sụ nghèo đói, lòng ganh ghét, sự tham lam và đạo đức giả lẫn cái gọi là niềm tin tôn giáo đã xù lông, giương ra những móng vuốt như thế đấy.
Zorba sừng sững đứng giữa cõi hỗn man, đứng giữa đồng loại đầy nanh vuốt của hắn và cười và khóc và nguyền rủa.
Hắn vung cái dương vật của hắn lên như một quả chuỳ, xua đuổi ma quỷ trong niềm kiêu hãnh tuyệt vọng.
Đó là Zorba, kẻ giải thoát.
Đó là Zorba đức Cồ Đàm dũng mãnh và cô đơn tuyệt đối.
Ngày 24 tháng 11 năm 2014
ĐÀO HIẾU
Pingback: NHẬT BÁO BA SÀM : TIN THỨ SÁU 5-12-2014 | Ngoclinhvugia's Blog
Con người thật xấu xa độc ác!Đạo đức giả ,lòng đầy tham lam!Tự cho mình trong sạch thanh cao Cười trên sự đau khổ người khác!Những người đàn Ông tanh lòng khát máu! Vui chiến thắng đắc ý với tàn bạo! Lấy sướng nhục cảm và chà đạp…!Say chiến thắng bản chất thú vật!Họ-Đàn Ông -Đàn Bà máu lạnh-Tim sắt ,gan đồng,hồn hoang-Nhai bạo tàn -Nuốt sinh mạng người sống !Zorba với tình yêu thương hại Hắn bất lực phản ứng vượt ngoài khả năng!Người phụ nữ cô đơn thật đáng thương!Cái tốt không toàn thây,bởi những bàn tay khát máu!Những cái đầu u mê !Với những hủ tục tàn nhẫn”ném đá”!Những cái bụng tham lam!Lòng dạ bẩn thỉu-Miệng không ngớt cầu kinh-Vin vào Thánh-Dựa quyến năng ”thay trời hành đạo!”
Zorba khinh thường tất cả sự Đạo Đức giả!Nhưng chẵng thể thay đổi được gì!Khi bản thân hắn lạc loài,yếu thế giữa đám người sống mà”Cái Ác, Dữ ,Xấu nhiều hơn cái Hiền, Lành, Tốt!”Điều đó nhan nhãn xung quanh đâu cũng thấy!!!
Giả sử mọi người trên đời đều là Zorba thì sao nhỉ? Loài người sẽ nhanh chóng bị tuyệt diệt vì các loại bệnh dịch lây lan theo đường tình dục.
Tác phẩm điện ảnh “Zorba The Greek” đã đoạt 3 giải Oscar năm 1964. Nhà văn Nikos Kazantzakis của Hy Lạp chỉ thiếu có 01 phiếu để đoạt giải thưởng Nobel văn chương (sau Luigi Pirandello)
Chúng ta có quyền không thích sống như Zorba, nhưng hãy tôn trọng lối sống đó.