Đào Hiếu
11.NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA BÙ KHÚ TIÊN SINH
Một nhà sư trẻ, cao lớn, đầu cạo trọc lởm chởm, chạy xe từ ngoài cổng thẳng tới chỗ Bù Khú đang ngồi.
-Mẹ mất rồi.
Bù Khú chỉ kịp xỏ chân vô đôi xăng-đan rồi hai cha con chạy xe ra cổng.
Đó là một đám tang im lặng, không kèn không trống, không tụng kinh gõ mõ, chỉ lan tỏa một dòng nhạc êm dịu của dân ca Nga, giai điệu buồn, trầm ấm mà lúc sinh thời người chết rất ưa thích. Bà nói: em đã bỏ đạo để về với trần tục thì sẽ chết như một người trần tục. Ảnh trên bàn thờ chụp khi Bắc sinh con được 8 tháng, mặc đồng phục tiếp viên hàng không. Khi Bù Khú thắp nhang trước linh cữu, ông thấy đôi mắt Bắc ngước lên nhìn ông, mày rậm, mắt một mí.
Tòa cao ốc đứng sừng sững trong một khu đất khuất tịch, cảnh trí chung quanh như một tiểu thiên địa, có cây có đá, có dòng suối nhân tạo róc rách. Một đám tang thanh bình, một khoảng sân rộng và mát. Không ai khóc.
Hôm cuối cùng, Bù Khú đến viếng Bắc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Một cơn hấp hối kéo dài trong đau đớn, nhọc nhằn. Mê và tỉnh xen kẽ nhau. Cứ mỗi lần tỉnh lại, Bắc hỏi:
“Anh còn nhớ hôm đó trời mưa không?” Rồi không nói được nữa. Lại rơi vào mê sảng. Khi tỉnh dậy lại hỏi: “Anh còn nhớ hôm đó trời mưa không?”
*
Chỉ là một cơn mưa nhỏ, nhưng vì Bắc không mang áo mưa nên ướt tóc. Cô giấu cái túi xách trong áo gió.
-Em chạy thẳng từ phi trường về đây.
Bù Khú ngồi vào máy tính, cô nhân viên bán hàng nhận số mỹ phẩm Bắc đem về, bóc tờ hướng dẫn ra đưa cho Bù Khú. Anh dịch. Trời tối hẳn, mưa càng lúc càng dữ dội, từ trong cửa kính nhìn ra thấy mặt đường trắng xóa. Lá phượng rụng, trôi theo những dòng nước nhỏ.
Bù Khú hoàn tất công việc dịch thuật rất nhanh và Bắc cũng đã sấy khô tóc. Bù Khú nói:
-Mưa không trói buộc, nhưng cũng giữ được khách ở lại rồi.
Bắc hỏi:
-Hình như đó là ý của một câu thơ, đúng không?
-Đúng. Cổ thi hay nhắc đến mưa. Nổi tiếng nhất là bài “Dạ vũ ký Bắc” của Lý Thương Ẩn.
-Tên bài thơ đó có nghĩa là gì?
-Tạm dịch là: Mưa đêm nhớ đến cô Bắc.
Bắc cười khúc khích:
-Em và Lý Thương Ẩn sống cách nhau cả ngàn năm sao ông ta nhớ em được?
-Anh không biết. Có khi ổng yêu em từ kiếp trước thì sao? “Quân vấn quy kỳ, vị hữu kỳ. Ba Sơn dạ vũ trướng thu trì. Hà đương cộng tiễn tây song chúc. Bất thuyết Ba Sơn dạ vũ thì”.
-Anh dịch đi.
-Tạm dịch: Anh hỏi em, máy bay từ Paris về lúc nào? Em đáp chưa biết. Mưa đêm trên núi Ba Sơn đầy tràn mặt ao. Biết bao giờ chúng ta mới được cùng nhau ngồi chong đèn bên cửa sổ. Cùng trò chuyện về những đêm mưa?
Cô tiếp viên hàng không lại cười:
-Dịch xạo quá ông ơi. Nhưng đó là một bản dịch hay. Em sẽ nhớ cái tên Lý Thương Ẩn này. Ông ta là ai vậy?
-Một thi sĩ đời Đường, ông ta là người Hà Nội.
-Hà Nội? Anh lại lái sang em nữa rồi! Em là người Hà Nội nè.
-Ở bên Tàu cũng có “Hà Nội”, thuộc tỉnh Hà Nam.
-Sao anh quan tâm đến Lý Thương Ẩn quá vậy?
-Anh quan tâm đến những gì có liên quan tới Bắc.
–Tại sao?
-Trong bốn hướng Đông Tây Nam Bắc thì hướng Bắc là quan trọng nhất
-Gì nữa?
-Và kim la-bàn lúc nào cũng chỉ hướng Bắc.
Đại khái đó là những câu mà Bù Khú dùng để tán tỉnh cô tiếp viên hàng không.
Một tháng sau ông chủ shop mỹ phẩm gọi Bù Khú đến:
-Tôi cho anh đi Pháp, anh đi không?
-Đi liền, nhưng để làm gì?
-Mua mỹ phẩm.
-Có biết đường sá đâu mà đi.
-Anh quên cô Bắc rồi sao?
-Nhưng cổ có rảnh đâu.
-Cổ có thể mua mỹ phẩm cho mình thì cũng có thể dẫn anh đi được.
Rồi ông đưa cho Bù Khú một danh sách toàn kem dưỡng da, kem tẩy trắng, trị nám, kem trẻ hóa da…Những sản phẩm ấy Bù Khú đã dịch hàng trăm lần, thuộc lòng.
Anh gọi điện cho Bắc. Bắc nói sẵn lòng giúp. Nhưng…
-Có vẻ như anh sẽ cạnh tranh với em.
-Đừng quan tâm. Lâu nay em chỉ mua giúp cho shop mấy hộp thôi mà, còn bây giờ anh mua nhiều.
Chuyến ấy cửa hàng giao cho Bù Khú mười lăm ngàn đô.
-Mua nhiều quá làm sao đem qua cửa khẩu?
-Chuyện đó để tiếp viên hàng không lo.
Thật chu đáo. Good! Anh bắt tay Bắc và hôn nhẹ lên má.
Đó là những ngày rất hạnh phúc ở Paris. Tuyết rơi đầy trời. Quảng trường Trocadéro, Champs Élysées, thánh đường Sacré-Coeur trắng xóa trên đồi, những khu rừng rụng hết lá và những vòi nước phun đông cứng ở điện Versailles, vòng xoay Périphérique ngập trong hơi nước và gió lạnh… Hai người ủ tay nhau nơi ghế đá khuôn viên nhà trờ Notre Dame, những con chim bồ câu bay lên như đám mây, chim sẻ đậu trên những ngón tay của Bắc đòi ăn…
Buổi chiều họ đem mỹ phẩm về một khách sạn bình dân gần phi trường Charles De Gaulle.
Tối đó lạnh quá, lò sưởi không đủ ấm. Bù Khú uống Cognac liên tục và ép Bắc uống bằng những chai échantillons lấy trên máy bay nhưng hai người vẫn lạnh run. Tuyết cứ rơi hững hờ, trôi dạt lấp lánh bên ngoài khung cửa trắng xóa, bất tận.
Bắc nói:
-Lý Thương Ẩn thường mơ ước được cùng người yêu chong đèn bên cửa sổ để nhắc lại những kỷ niệm về những đêm mưa trên núi Ba Sơn. Còn ở Paris là mưa tuyết đầy trời chẳng lẽ Bù Khú Tiên Sinh không có hứng thú chong một ngọn đèn bên cửa sổ hay sao?
-Chong đèn thì được nhưng nhắc lại những kỷ niệm xưa thì không, vì lạnh quá, run lập cập, hai hàm răng va vào nhau, sao có thể tâm sự được.
Bù Khú xé những thùng mỹ phẩm thừa ném vô lò sưởi mà vẫn lạnh run. Chỉ còn cách ôm nhau. Ôm lỏng tay cũng lạnh. Phải ôm chặt, phải siết lại. Hai môi gắn chặt. Và một mầm sống đã xuất hiện trong căn phòng lạnh lẽo đó.
Khi biết tin ấy, ba của Bắc nổi giận:
-Không chấp nhận. Nó là một thằng Việt cộng.
-Ảnh là một trí thức. Không phải Việt cộng.
-Ba không cần biết. Ba không thích Việt cộng. Ngày trước chúng nó đấu tố ông nội con đến chết chỉ vì ông là địa chủ. Địa chủ cái nỗi gì! So với một thằng chủ tịch xã bây giờ tài sản đất đai của nó gấp trăm lần!
-Thưa ba, ảnh rất nghèo. Đi xe đạp, ở trong một chung cư tồi tàn.
-Con là tiếp viên hàng không trẻ đẹp như thế, sao phải lấy một thằng Việt cộng nghèo? Hãy bỏ cái thai ấy đi!
Nhưng hai người vẫn sống chung với nhau trong bảy năm, và cái thai đã trở thành một thằng bé lanh lợi, khỏe mạnh. Không ai biết sau này nó là nhà sư.
Hai người đã chia tay vì cái gì? Vì nghèo khó hay vì tính cách ngông cuồng của Bù Khú? Đứa con trai ở với mẹ một thời gian thì Bắc gởi nó lên chùa. Rồi đến lượt Bắc. Nghe nói đường tình duyên lại trắc trở nên cô xuất gia vào sống trong chùa với con.
Mấy năm sau có người bạn đến báo tin: Bắc đang nằm ở Chợ Rẫy. Bù Khú đến một mình. Phòng đông nghẹt bệnh nhân. Hai người phải gặp nhau ngoài hành lang. Hành lang cũng đông người. Bắc mặc đồng phúc trắng của bệnh viên, xanh xao, hiu hắt. Bù Khú hỏi:
“Chồng em đâu?”
Bắc chỉ lắc đầu. Anh cầm bàn tay nhỏ nhắn của Bắc, áp mặt mình lên đó. Nước mắt rớt trong lòng bàn tay gầy yếu trắng xanh của cô gái Hà Nội.
“Em có còn nhớ bài Dạ Vũ Ký Bắc không?”
“Em chỉ nhớ bản dịch của anh. Anh hỏi em, máy bay từ Paris về lúc nào? Em đáp chưa biết. Mưa đêm trên núi Ba Sơn đầy tràn mặt ao. Biết bao giờ chúng ta mới được cùng nhau ngồi chong đèn bên cửa sổ. Cùng trò chuyện về những đêm mưa?”
Bù Khú xoa đầu ngón tay lên vết đỏ có hình cánh bướm trên má của Bắc, hỏi:
“Bệnh lupus là bệnh gì vậy?”
“Bệnh đó không chữa được anh ạ. Người ta tính đưa em sang Mỹ để thử nghiệm một loại thuốc mới.”
Và cuộc thí nghiệm đó đã không thành công.
*
Hai cha con ngồi đối diện nhau. Bù Khú hỏi:
-Ở trong chùa con có ổn định không?
-Con vẫn bình thường. Còn cha, cha có còn uống nhiều rượu không?
-Vẫn uống. Đời chẳng có gì vui con ạ. Hôm nay “bố dượng” có đến không?
-Ông ta đang ngồi ở ngay trước quan tài đó.
Bù Khú nhìn về hướng ấy, bắt gặp đôi mắt đỏ hoe cũng đang nhìn về phía mình. Rồi người đó đứng lên, đi lại phía hai cha con Bù Khú. Đứa con gái của ông cũng đến chào. Bù Khú hỏi:
-Con đã thắp hương cho mẹ chưa?
-Dạ.
Con bé cũng cận thị như ba nó. Việc chào hỏi xảy ra trong vài phút. Nhẹ nhàng và cũng không có gì khách sáo. Người đàn ông đó, cho đến giờ Bù Khú cũng không biết tên là gì, làm nghề gì, mười mấy năm trước chỉ nghe một người bạn nói: tao gặp một thằng cha đeo kính cận chở con vợ mày đi chơi ở vùng quê tận Nhà Bè. Tối đó Bù Khú hỏi: có đúng vậy không? Bắc đáp “có”. Và từ đó Tiên sinh không nói gì nữa. Ngôn ngữ bị loại bỏ khỏi căn phòng tồi tàn mà người ta đã cấp cho Bù Khú khi mới giải phóng. Một năm sau hai người ly hôn. Một năm sau nữa cậu con trai đi tu. Rồi đến lượt Bắc cũng vô chùa. Game over! Chấm dứt kết nối.
Nhưng Bù Khú không trách cứ, cũng không buồn. Vì đó là lỗi của ông. Ông đã tự thổi tắt ánh hào quang của mình: người trí thức đi kháng chiến, một chàng hiệp sĩ.
Tắt hào quang rồi ông trở thành một anh đồ gàn khó tính. Và thất nghiệp.
Nhiều năm sau, Bù Khú lên chùa thăm, Bắc nói:
“Phải chi Lý Thương Ẩn không có bài Dạ Vũ Ký Bắc. Phải chi chúng ta không đi Paris với nhau.”
Rồi bà lấy cây bút lông và một tờ giấy. Bà ngồi lại bàn, sửa thế ngồi cho ngay ngắn. Bà nói:
“Em có học một ít chữ Hán. Hôm nay em sẽ chép tặng anh hai câu của Giả Đảo để làm kỷ niệm”.
Rồi Bắc cầm cây bút lông, nét chữ thảo rất khoáng hoạt.
Quái cầm đề khoáng dã
Lạc nhật khủng hành nhân
(Chim lạ kêu giữa đồng trống. Nắng tắt làm kinh sợ người đi )
Bà đưa hai câu thơ cho Bú Khú. Từ đó họ không gặp lại nhau nữa. Lúc ấy Bù Khú nghĩ: chắc có lời nhắn nào trong hai câu cổ thi đó, nhưng bây giờ thì nó đã mất rồi, lời nhắn, dẫu có, cũng chỉ là mây khói.
*
Người đàn bà thứ hai bước vào cuộc đời Bù Khú rất tình cờ. Bù Khú vẫn còn sống trong cái ổ chuột trên tầng bảy của cái chung cư rách nát ấy nhưng hắn đã xin được một chân cộng tác viên cho báo phụ nữ. Hắn giữ mục Hướng Dẫn Làm Đẹp. Ngày nọ hắn nhận được một thư độc giả hỏi về cách trị mụn. Hắn trả lời rất chi tiết về nguyên nhân mụn, cách chữa trị, cách ăn uống phù hợp và còn giới thiệu những mỹ phẩm hiệu quả.
Một tháng sau Bù Khú nhận được thư của cô độc giả nọ mời đi uống cà-phê. Hôm đó hắn gặp hai cô gái. Hai cô ở chung nhà, cô độc giả là thợ may tên Kim còn cô bạn tên Thúy, không rõ làm nghề gì.
Hắn đến nhà Kim chơi vài lần, có ý muốn gặp lại Thúy nhưng cứ vắng mặt hoài. Ngày nọ Kim mời hắn đến ăn trưa và hắn đã gặp Thúy.
Thúy nói:
-Chắc bữa đó em đi duỗi tóc nên anh không gặp. Hôm nào ba anh em mình đi bowling.
Nhưng tốc độ thân mật giữa Bù Khú và Thúy còn nhanh hơn trái banh bô-linh nhiều. Thức ăn đang nấu thì phát hiện còn thiếu vài món gia vị. Kim nói:
-Thúy ở nhà bắc dùm nồi nước, mình đi chợ.
Kim ra khỏi nhà chừng ba mươi giây thì Thúy đi tắm. Bù Khú ngồi trong bếp gọt dưa chuột. Tự nhiên nghe tiếng gọi:
-Kim ơi! Đưa giùm mình cái khăn tắm.
Bù Khú nói:
-Kim đi chợ rồi. Chỉ còn mình anh thôi.
-Vậy sao? Xin lỗi nha!
Nhưng Bù Khú đã đem khăn lại cửa phòng tắm.
-Em có nhờ anh đâu.
-Nhưng em đang cần khăn mà.
Bù Khú đẩy nhẹ cánh cửa. Nó không cài chốt bên trong. Hắn nhìn thấy một vầng hào quang sáng rực. Hắn bước vô. Thúy hỏi:
-Vô đây làm gì?
-Lau mình cho em.
Rồi hắn quỳ xuống, thấm nước giữa hai đùi của Thúy. Thúy cười khúc khích.
-Không được đâu. Anh ra đi. Kim nó về bây giờ.
-Chưa về đâu. Kim đi bộ ra chợ mà.
-Nhưng em không thích chụp giựt. Hẹn ngày mai ở một nơi khác. Hôm nay em chỉ muốn khoe với anh một chút thôi.
*
Vậy đó. Nhưng hắn yêu Thúy. Thúy ơi, dù em có làm gái điếm một ngàn năm anh vẫn tôn thờ em. Em luôn rực rỡ, cao quý và thần thánh. Tại sao không? Thế ai mới là thần thánh? Người vợ trước của anh là một tiếp viên hàng không, một trí thức, một nữ tu sĩ, những người vợ sau này của anh có người là bác sĩ, có người là nhà văn, họ có thể cư xử lịch thiệp hơn em nhưng để làm gì?
Trong một xã hội mà guồng máy toàn là bọn ăn chặn, bọn móc ngoặc, bọn đầu trộm đuôi cướp thì gái điếm vẫn là một nghề trong sạch và cao quý hơn nhiều.
Nếu đem em ra so sánh với bọn họ thì em là một thiên thần. Em đáng được dựng tượng trên quãng trường thành phố.
Bù Khú và Thúy thường gần gũi nhau vào buổi trưa. Thúy làm việc ở vũ trường đến một hai giờ sáng, có đêm đi khách xong trở về mệt rã rời nhưng không dám ngủ. Cứ nằm lơ mơ một lúc thì trong đầu lại vang lên: Đi tắm! Phải dậy tắm rồi mới được ngủ! Và Thúy vùng dậy. Tắm xong, ngủ đắm đuối tới trưa. Lúc đó Bú Khú đến và hai người đi ăn, xong vô khách sạn nằm với nhau đến chiều thì chở nhau dạo phố, đi ăn chiều. Tối lại đến vũ trường.
Có lần trong khách sạn, Bù Khú nằm ngắm Thúy. Anh nói:
-Thật giống như cái pháo bông.
-Cái gì giống?
Bù Khú xòe hai bàn tay ra, vẽ trong khoảng không giữa hai người:
-Từ phía dưới mọc lên thật rậm, rồi xòe ra hai bên, ép sát vào da thịt, tỏa ra nhiều nhánh đen nháy như huyền ngọc, lấp lánh. Giống hệt cái pháo bông em ạ. Anh chưa từng thấy có người đàn bà nào lại tỏa ra như pháo bông vậy. Chùm pháo bông ấy là một kỳ quan của nhân loại.
Thúy cười ngặt nghẽo:
-Khùng quá ông ơi!
-Không khùng đâu. Phải là một thiên tài mới nhìn thấy cái pháo bông của em.
Thúy hôn để cám ơn “thiên tài” của mình. Khi mọi thứ đã lắng xuống, Bù Khú cứ cầm bàn tay của Thúy mà hôn hoài. Anh nói:
-Có lẽ em phải bỏ nghề này thôi Thúy ạ. Anh không coi thường nó nhưng nó làm em mất sức. Em sẽ ngã bệnh.
Nhưng Thúy không thể bỏ nghề. Vì cô đã quyết tâm đưa gia đình ra khỏi kiếp lầm than. Bù Khú cũng quyết tâm làm một cái gì đó cho Thúy. Ngày Tết anh đưa Thúy về Hậu Giang. Thúy nói:
-Nhà nghèo lắm. Anh không thể tưởng tượng được đâu. Thân lắm em mới đưa anh về, không thì mắc cỡ chết được.
Về làng. Không phải làng mà là một cái xó. Và ở miền Tây có hàng ngàn cái xó như vậy. Chúng nằm trong kẹt của đất nước. Chỉ là thứ bãi bồi, những rẻo đất bùn lầy, lởm chởm, hầm hố… rải rác giữa vùng sông rạch chằng chịt. Những mái lá thấp bé lẩn khuất trong cây lá trong ruộng đồng, trong cỏ lát. Những con người sạm đen tối ngày ngây ngất trong men rượu gạo đục ngầu, không gian lạch bạch tiếng ghe máy, tiếng vịt kêu. Mái lá trống, rách nát. Nền đất đen, mấp mô, bếp lửa đen kịt khói và bồ hóng. Những chiếc võng rách vá víu, những chiếc giường tre và manh chiếu cũ mòn.
Thúy hỏi:
-Thấy nhà đẹp không?
Bù Khú ngậm ngùi, ông chỉ nói:
-Anh thương em lắm.
Có chiếc ghe máy đậu lại bến sông. Ba người đàn ông dìu nhau lên bờ. Hình như họ đang nhậu dở dang ở đâu đó. Ông già của Thúy vỗ vai Bù Khú:
-Này chú em. Vô đây.
Các thứ được bày ra trên bộ ván. Cuộc sống đơn giản hóa, thành một tập tính của động vật. Mỗi ngày họ tìm đến nhau, ngồi trên bộ ván, mấy con khô, một dĩa xoài, bình rượu. Không quan tâm đến quần áo, giày dép. Họ đi chân đất, ở trần. Họ nói những câu chuyện giống nhau, họ lập lại những điều đã nói, họ la hét, cười khóc và hỉ mũi. Họ không biết gì đến những cuộc sống khác, những thế giới khác, những loài người khác. Họ không quan tâm đến nhà cửa, những tiện nghi vật chất. Những mái lá cứ xơ xác, xiêu đổ. Gió xô sập rồi lại mọc lên, đơn giản như cái ổ gà.
Sáng sớm Thúy thức dậy trên chiếc giường tre ọp ẹp, mùng màn treo toòng teng, quần jean, áo sơ-mi mắc lộn xộn. Bù Khú biết cô đã thức dậy nhưng còn đang nằm trong cái đống bùi nhùi đó. Anh lòn qua mấy cái quần, vén mùng lên. Thúy uốn mình như con báo cái uyển chuyển. Thúy vẫn đẹp rực rỡ trong đống giẻ rách ấy nhưng anh không dám ôm hôn. Và Thúy cũng không vít đầu anh xuống như những lần ở khách sạn. Bù Khú chần chừ, ngại ngùng. Thúy hỏi:
-Có gì vậy?
-Toa-lét đâu?
Thúy cười khúc khích. Gọi:
-Út ơi! Út! Dẫn anh Hai mày đi ra thăm mấy con cá tra kìa!
Bú Khú giật mình. Đó là lần đầu tiên anh tiếp xúc với “nền văn minh cá tra”, một thứ chu kỳ sinh học khép kín đơn giản hiệu quả và vệ sinh nhất.
Khi trở vào Thúy hỏi:
-Sao? Chúng nó có lịch sự không?
-Hơi mất trật tự. Nếu như ở thành phố thì chúng nó phải xếp hàng.
Thúy cầm cái bàn chải răng, mở nắp lu nước. Một con rít to bằng ngón tay bò lên miệng, cô dùng cán bàn chải đè đầu nó, nó rớt xuống đất, giãy giụa. Thúy vít nó cho lũ gà đứng bên cạnh.
-Rít ở đâu mà to thế?
-Nhiều lắm. Nó ở trên mái nhà. Nó theo nước mưa xuống nằm trong lu.
Cô máng khăn mặt lên nhánh cây chùm ruột. Bọt kem đánh răng dính quanh miệng. Bù Khú nói:
-Đánh răng kỹ quá, mòn hết. Bắt đền!
Thúy xua tay đuổi Bù Khú đi. Cậu em trai của Thúy bưng cai rổ đi ra bờ sông, Bù Khú ngoắc lại:
-Sơn ơi! Đi mua cho ba thùng bia.
-Ba không uống bia. Ở đây không ai uống bia đâu anh ơi.
-Thôi, mua con vịt quay.
Sơn nhận tiền, bỏ đi.
Nhưng tối đó không có cuộc nhậu. Ba của Thúy lên cơn đau bụng. Ông cong người, rên rỉ, rồi ói ra máu. Cả nhà thức dậy. Bù Khú xuống võng, mặc quần áo. Anh bảo Thúy:
-Xuất huyết bao tử. Phải đem bệnh viện gấp.
Chiếc ghe máy chạy giữa đêm. Ra tới huyện Vị Thanh. Xa mút chỉ. Cũng may còn giường trống. Chuyền nước biển. Bù Khú và Thúy ngồi hai đầu giường, bé Sơn ra hành lang ngủ. Đêm đó hai người không nói chuyện gì. Thúy chỉ khóc còn Bù Khú thì chỉ nói đi nói lại một câu: Anh thương em. Anh thương em. Nói lai rai cho tới sáng. Nói mỏi miệng rồi thiếp đi.
*
Trở lại Sài Gòn, Thúy trở về với thế giới của đêm. Với cõi âm. Trở về với địa ngục sang trọng, hào nhoáng, rực rỡ.
Còn với Bù Khú, nó là những đêm trắng. Hắn nhận làm thêm nhiều tờ báo khác. Báo của quận cũng làm, của phường cũng không từ chối. Hắn thiết kế đủ loại mẫu mã, giải đáp làm đẹp. Và… làm thơ. Thơ kiểu gì hắn cũng làm được: thơ Đường, thơ Mới, thơ Tự do, thơ Ấn tượng… hắn sản xuất hàng loạt. Lúc rảnh rỗi hắn chạy xe ôm nữa.
Nhiều buổi trưa gặp Thúy ở khách sạn hắn ngủ đắm đuối. Thúy cũng ngủ. Thức dậy phờ phạc. Hai người đều quên làm tình. Thực ra, cả hai cùng mệt lả. Bù Khú đề nghị:
-Ngày mai em dọn về ở với anh. Đỡ bớt chi phí.
*
Nhưng khuya đó Thúy không về. Cúp máy. Mấy ngày sau, có lần Bù Khú nghe chuông reo nhưng không ai bắt máy, gởi tin nhắn cũng không trả lời.
Bóng tối và sự hoảng loạn trùm xuống. Như một cơn địa chấn. Bỗng nhiên thấy trái núi trước mặt biến mất, dòng sông cũng cạn khô, thấy mình đứng giữa ngổn ngang gò đống. Con chim lạ kêu giữa đồng trống. Nắng tắt làm kinh sợ người ở lại. Thúy biệt mù, không tăm tích. Như con thuyền thất lạc trong cơn bão, không về bến. Hắn đứng ngóng trên biển. Chân trời thẳng tắp, không một bóng dáng, không một cánh chim, chỉ có sương khói và tiếng sóng.
Chiếc điện thoại di động đã chết, lạnh ngắt như một tử thi. Con thuyền không về. Mất liên lạc. Mất tích. Không rõ nguyên cớ. Hắn kêu gào trong căn phòng đóng kín. Hắn đi suốt đêm quanh căn phòng trọ của Thúy. Hắn ngồi rình trong bóng tối của con hẻm chật hẹp. Cửa đóng, khóa bên ngoài. Những người hàng xóm nói: cả tuần nay không thấy cổ về. Không có bờ biển nào để mà ra ngồi ngóng. Không có con thuyền, chỉ có tiếng xe máy, nhưng trong một đêm có rất nhiều xe máy đi qua con hẻm đó. Hắn đói khát, tàn tạ, gầy đét như con cá khô bị bỏ quên trên hè phố.
Ngày thứ mười hắn leo lên một chiếc xe khách về Cần Thơ. Người cha nói:
-Không thấy nó liên lạc. Ở nhà gọi điện thoại cũng không được.
Chỗ bám cuối cùng cũng sụp đổ. Bù Khú nằm khóc trên chiếc giường tre của Thúy. Và không dậy nữa. Ngày thứ ba lúc nửa đêm, điện thoại reo. Một số điện thoại lạ hiện lên màn hình.
-Cho tôi gặp anh Mười Bù.
-Mười Bù đây.
-Thúy nhờ tôi nhắn với anh là cô ấy bị bắt cóc hiện bị giam trong một căn phòng ở Chợ Lớn. Điện thoại bị lấy mất rồi.
-A lô! A lô!. Tôi gặp chị ở đâu?
*
Một quán cà phê tồi tàn. Một người đàn bà tàn héo như món trang sức đã rỉ sét.
-Thúy đâu?
Người đàn bà chỉ lên cái gác gỗ phía bên kia con hẻm. Bù Khú hỏi:
-Làm sao lên đó?
-Không lên được đâu. Phải bước qua xác của thằng ghiền đó. Nó cầm con dao phay, chờ ở cầu thang. Nó chờ cậu đấy.
-Nhưng nó có quan hệ gì với Thúy?
-Nó là chồng của cổ. Trước nay cổ đi làm về đưa tiền cho nó xài. Đưa không đủ, nó đánh, chửi. Cổ phải trốn đi cả năm nay. Nó không có tiền xài phải đi ăn cướp, bị bắt đưa đi cải tạo. Nay nó trốn về, đến vũ trường tìm con nhỏ.
-Nhưng hai người có cưới nhau không?
-Cưới gì. Nó chỉ là một thằng bảo kê.
-Thế thì nó chẳng có quyền gì cả. Tôi sẽ giành lại. Tôi sẽ cưới. Bây giờ tôi đi báo công an.
-Công an cũng không dám đụng đến nó đâu. Nó có nguyên một băng.
-Thế chị không sợ tụi nó sao?
-Tụi nó là hàng xóm của tui. Hôm qua tui tình cờ đi ngang dưới cửa sổ. Thúy thả cho tui mảnh giấy, có ghi số điện thoại của cậu.
Bù Khú nói cảm ơn rồi bước ra khỏi quán. Anh băng qua bên kia hẻm, đến sát dưới cửa sổ phòng giam của Thúy. Anh gọi:
-Thúy ơi! Thúy!
Không ai trả lời. Lại gọi:
-Thúy ơi!
Liền có một mặt người hiện ra, nhợt nhạt, tóc sổ tung. Thúy đưa tay vẫy. Nhưng gã đàn ông đã xuất hiện, hét lên:
-Đ.m. Đứng im đó đi. Tao sẽ xuống giết mày!
Tình huống ấy không bất ngờ với Bù Khú. Anh có một khẩu K59 đem từ trên rừng về. Anh quyết định xông vào nhà, leo lên gác. Hai người gặp nhau ở cầu thang.
-Mày muốn gì?
-Muốn đưa Thúy đi. Tao sẽ đóng tiền chuộc cho mày.
-Không được. Thúy là vợ tao.
-Mày nói láo! Thúy chưa có chồng.
-Được rồi. Mày có bao nhiêu?
-Năm chục triệu.
Gã xì ke cười hô hố.
-Một hoa hậu mà rẻ như vậy sao? Một trăm triệu!
-Tao là công chức nghèo. Tao không có tiền.
-Vậy thì cút!
Hắn đạp vô ngực Bù Khú khiến anh lộn mấy vòng xuống thang gác, trán đập xuống nền nhà tóe máu. Thúy nghe động, chạy ra đầu cầu thang.
-Đừng đánh!
Nhưng gã ghiền đã cầm con dao phay, hùng hổ chạy xuống cầu thang. Hắn không biết đối phương có súng nên khi nghe thấy tiếng nổ thì đã quá muộn. Hắn trượt chân, đà chạy làm hắn ngã chúi, đập mặt vào những bậc cấp nham nhở.
Bù Khú cất khẩu súng vô túi, ôm Thúy vào lòng. Anh nói:
-Chúng ta không thể cất được nhà cho ba rồi em ơi!
Thúy bật khóc.
*
Nhưng nghe đến đó Ngọc lại cười. Bù Khú ném mẩu thuốc lá xuống đất.
-Em thật tàn nhẫn. Tại sao em lại có thể cười được. Em có biết rằng anh đã phải ngồi tù suốt năm năm trời không? Và tụi anh đã không bao giờ lấy nhau được.
-Tại sao?
-Thúy đã nuôi anh suốt năm năm đó. Tiền hết, nhà không cất được. Nhưng đau đớn nhất là khi anh ra tù thì Thúy lâm bệnh. Đó là một thứ bệnh không chữa được. Thúy sụp đổ. Tan nát. Anh nói: chúng ta sẽ cưới nhau, bất chấp căn bệnh khốn kiếp ấy. Nhưng Thúy đã bỏ đi.
Ngọc nói:
-Một mối tình lớn như vậy. Một cô gái đáng yêu và đáng phục như vậy. Sao anh không chung thủy với cô ta? Sao anh bồ bịch tùm lum vậy?
Bù Khú thở dài.
-Em ngồi dịch ra một chút đi. OK. Nhìn kỹ anh đi! Không có gì đặc biệt cả. Không đẹp trai. Không cường tráng, không trẻ, không giàu. Thế tại sao đàn bà con gái họ yêu anh? Cả em nữa, phải không?
-Em không yêu anh.
-Sao lúc nãy em nói em sẽ tìm hiểu cho hết hai mươi bảy bà vợ của anh rồi sẽ lấy anh?
-Em xạo.
-Cũng được. Nhưng anh không xạo. Không yêu giả. Vả lại, anh chỉ có một dịp để sống trên cõi đời này. Thúy ra đi, nhưng anh vẫn còn ở lại. Anh phải sống cho hết cái kiếp người bạc bẽo này. Hãy nghĩ lại đi, hãy ôn lại những gì anh đã kể cho em trong những ngày qua. Đó là cuộc đời của anh. Nào có gì vinh quang, có gì sung sướng? Hạnh phúc thì ít mà đau khổ, đày đọa thì nhiều. Khi đã về già, không còn lại gì ngoài những mối tình cho dù là tuyệt vọng, cho dù là tan vỡ.
(còn tiếp)
Thích bài này:
Thích Đang tải...